Thứ Ba, 31 tháng 5, 2011

TRUYỆN KÝ LÍNH TÂY NGUYÊN

NHỮNG NGƯỜI LÍNH TRUNG ĐOÀN 
HỌ CHIẾN ĐẤU NHƯ THẾ
và tập thơ
hoa  người lính

Tác giả Hoàng Kim Hậu, Nguyên chiến sỹ C7-D8-E66-F10-QĐ3 Tây Nguyên

(RẤT ĐÚNG, RẤT THẬT, CÓ SAO NÓI VẬY : CHỈ CÓ LÍNH TÂY NGUYÊN MỚI THẤU  . )
(Bản đánh máy còn lỗi chính tả,tên địa danh còn có nơi chưa đúng
mong đồng đội góp ý để tập ký được hoàn chỉnh.)
thư xin gửi về b3taynguyen@gmail.com.
XIN CẢM ƠN
(Click chuột vào các phần để xem bài)
 ------------------------------------------------------
------------------------------------------------------
Phần 1
Sau 3 tháng vượt trường sơn.Tháng 8-1971 tôi được bổ sung vào C6-K8-E66 sau này thuộc F10-QÐ3 Tây nguyên.
Ðơn vị đóng quân trong một khu rừng già thuộc huyện Sa Thầy tỉnh Kon Tum. Ðó là một sườn đồi khá dốc, phía trước có một con suối nhỏ, các căn nhà làm dưới tán cây cách nhau khoảng vài chục mét. Nền nhà được đào vào sườn núi, cột và vách nhà làm bằng cây vầu- Loại cây thuộc họ tre nứa mọc đại ngàn ở khu vực này. Mái nhà cũng làm bằng thân cây vầu bổ đôi, lóc vấu lợp úp lên nhau. Có một cửa ra vào hai bên được chắn lại bằng một bức tường xếp bằng cây, đổ đất bên trong vuông vức.
Ðầu nhà đào thông vào một căn hầm chữ A có một cửa phụ để thoát ra ngoài khi bị bom oanh tạc.
Tôi biên chế vào A1-B1, căn nhà có hai chiếc giường hai bên làm bằng thân vầu băm thành xạp, ở giữa là một chiếc bàn bằng thân cây nứa đan lại phủ một mảnh tăng lên trên.Hơn ba tháng hành quân trên rừng toàn nằm trên võng nay nằm thẳng cẳng trên giường nó giống như người ta nằm ưỡn ngực ra, rất khó chịu.
Nhà có bốn người, anh Thụ tiểu đội trưởng vào chiến trường từ năm 69. Huy (tụt tạt-ca cóng) vào đây năm 70. Còn lại Luận người Gia Thanh -Phù Ninh- Phú Thọ và tôi là lính mới. Phía trước hầm có một cây dâu da cành lá um tùm chẳng thấy có quả nào cả. Phía bên kia suối là một cánh rừng đại ngàn mà lúc bấy giờ chúng tôi một mình không ai dám bước sang.
Toàn đại đội có hơn bốn mươi người. Anh Xuyên 22 tuổi đại đội trưởng. Anh Phú trắng trẻo, đẹp trai cũng khoảng tuổi đại đội trưởng - làm chính trị viên.
Lũ lính mới được nghỉ hai ngày để tắm giặt, làm quen với tiểu đội và cuộc sống ở hầm. Buổi tối ngày thứ hai toàn đại đội tập trung trên mảnh sân nhỏ trước cửa đại đội bộ. Anh Xuyên chính thức đọc biên chế cho từng tiểu đội, giới thiệu chức danh, nhiệm vụ từng B chiến đấu, nội quy an toàn nơi đóng quân và nhiệm vụ mới của đơn vị. Anh Phú nói về truyền thống của trung đoàn 66 Trung đoàn Anh hùng, những chiến công mới nhất như trận đánh công kiên cao điểm Ngọc-Rinh-Rua, Ngọc-Bờ-Biêng v.v Gương những anh hùng, liệt sỹ như Vương Văn Chài tiểu đoàn 7... Lúc bấy giờ tôi mới biết mình ở trong đội hình của đại đội mở cửa.
Hàng ngày chúng tôi leo lên đỉnh đồi nơi đơn vị đóng quân để tập quân sự. Thao trường là một vạt rừng bằng phẳng chặt hết cây nhỏ để lại cây to ngụy trang và làm bóng mát. Lô cốt được đan bằng phên nứa ghép ba mặt khoét một lỗ châu mai. Hàng rào kẽm gai cũng bằng dây nứa chẻ ra đan thành hàng rào đơn, kép, loại mái nhà, loại lò xo nhằng nhịt.
Ngoài những người lên thao trường, đại đội để lại từ ba đến bốn chiến sỹ ở nhà giúp anh nuôi gọi là đội quân đi (cải thiện).
Một lần tôi được phân công xuống nhà bếp.Tôi hỏi tiểu đội trưởng:
·          -Ði cải thiện là làm những gì?
Người A phó đứng bên cạnh cau có:
·          -Ði cải thiện mà cũng không biết làm cái gì ! Ông chỉ ăn thôi à?
 Tự nhiên tôi thấy mình bị xúc phạm:
·          -Này tôi vào đây vì nhiệm vụ cách mạng chứ không phải vào để ăn xin ông đâu-Bỏ kiểu ma cũ bắt nạt ma mới ấy đi !
Từ ấy không ai dám quát tháo tôi nữa.
Bước sang tuổi 18 tôi còn trẻ lắm, mặt búng ra sữa, trắng trẻo, đẹp trai nhưng cũng rất ngang ngạnh. Nghe đâu anh Phú định lấy tôi lên làm liên lạc đại đội, người trung đội trưởng bảo:
·          -Thằng này nhìn mặt nó hiền thế thôi chứ người lính- Tính quan đấy! Ngang lắm .
Một hôm đến lượt tiểu đội tôi đi cải thiện Huy đưa tôi đi ngang qua bờ suối. Sang một bãi đất bằng phẳng tôi chợt thấy có hai ngôi mộ đất còn rất mới, tôi ngạc nhiên hỏi:
·          -Dân có gần hay xa mà mồ mả lại chôn ở đây thế này anh Huy?
Huy bảo:
·          -Ðại đội cấm không được đưa lính mới sang chỗ này - thế nhưng ở đây nhiều măng lắm. Tý nữa về đừng có nói cái gì đấy nhé!
Qua Huy tôi mới biết đó là hai chiến sỹ của đại đội 6 vừa mới chết.Thằng Quang bị sốt rét ác tính - còn cái mộ bên phải kia là thằng Ký bị voi dàyđấy .Tôi hỏi:
·          - đây cũng có voi à! Thế nào lại bị voi dày?
 Huy kể: Năm vừa rồi đại đội mình tổ chức đi săn lấy thịt ăn tết. Ba người đi trong đó có Ký, loanh quanh trong rừng một đoạn họ phát hiện thấy một con voi rất to ở dưới sườn núi, tất cả ba khẩu AK cùng tập trung nhả đạn, bắn voi như đánh nhau với biệt kích ấy. Con voi bị thương nặng, lao đầu bỏ chạy. Nó đi đến đâu giang tre nứa cứ đổ rạp đến đấy, cả những sợi song to bằng bắp tay cũng bị tuốt xuống hết. Nghe tiếng nứa nổ phía bên kia đồi, ba người bèn chạy đón đường. Lúc ấy Ký đi đầu, bám theo vết chân voi không ngờ con voi lại chui đít vào bụi, thò đầu ra ngoài. Ký vừa đi đến nơi nó

dùng vòi quấn ngang người Ký và đập mạnh xuống đất , dùng chân dẫm nát rồi bỏ đi. Hai người còn lại không còn hồn vía nào nữa chạy về báo cho đại đội. Hôm sau con voi ấy ra uống nước và cũng chết bên bờ suối. Thế cho nên đại đội không muốn số lính mới biết chuyện này, sợ tư tưởng hoang mang, dao động.
Trưa về chúng tôi giao cho anh nuôi hai gùi măng rất nặng. Ðầu óc tôi cứ lởn vởn hình ảnh hai ngôi mộ nằm im lìm, hoang vu bên bờ suối, hai người chiến sỹ trẻ măng tầm tuổi tôi đã vĩnh viễn nằm lại ở mảnh đất đại ngàn này, rồi đây ai xẽ quay lại tìm, ai hương nhang cho họ.
Tháng tám đang vào mùa mưa dữ dội, con suối trước nhà nước chảy ào ào như thác, rất ít hôm trời tạnh ráo. Ngoài những ngày tập quân sự ra, mỗi tháng chúng tôi phải hai lần đi lấy gạo.Từ địa điểm đóng quân ra đường xe thồ nơi có kho gạo phải mất ba ngày cả đi và về. Mờ sáng chúng tôi hành quân, khoảng 4 giờ chiều đến vị trí tạm trú. Một số ở lại làm lán và lấy củi phụ giúp anh nuôi, mấy người nhanh nhẹn, tháo vát cầm gùi tìm vào nương bỏ hoang của dân đào sắn- Tối về luộc cho chặt bụng.
Tôi và Huy thường được đi trong nhóm ấy. Huy bảo tôi:
·          -Người dân tộc Thượng ở đây họ thật thà, chất phác và rất ghét sự trộm cắp dối trá. Thằng Công sau này nó bị sốt rét ác tính chuyển ra K thu dung rồi- Một lần chui vào nương sắn của dân đào trộm, không ngờ họ phục kích và bắt được quả tang. Dân bảo: Ðồng bào ghét cái bộ đội này như ghét con heo rừng! Con heo rừng phá nương của đồng bào cái bộ đội này cũng phá rẫy của mình, đồng bào xin cái tay bộ đội!
Hôm ấy may làm sao thằng Công lại đem theo quả US , nó nhanh trí rút quả lựu đạn ra và bảo: Ðồng bào mà chặt tay của mình, mình buông tay ra thì mình và đồng bào cùng chết!
Hoảng quá đồng bào bảo:Ơ cái bộ đội chết còn có người bổ sung, đồng bào mà chết thì không có ai thay mình á, thôi cho cái bộ đội đi đi!
Chẳng hiểu có thế thật hay Huy nói để doạ tôi nhưng hôm đó sau khi lấy xong mỗi người một gùi sắn, đang cắt rừng tìm đường về thì gặp một nhóm dân đang làm cỏ lúa. Chúng tôi mặt tái mét, tôi ngã huỵch xuống đất, gùi sắn dập xuống, ngực đập vào một gốc cây cụt vẫn còn đau đến tận bây giờ.
Tối về anh nuôi gọt sắn, luộc lên chia về cho các lán. Nằm đung đưa trên võng, ăn củ sắn thơm và bùi cũng thấy yêu đời đáo để. Bởi thế lính tây nguyên mới có câu ca rằng:

Tà tà chân bước vào nương
Tay ôm quả bí - bụng thương đồng bào.

Sáng hôm sau hành quân đến kho gạo chia vào các gùi xong, ăn cơm nắm và quay về đến chỗ chú quân hôm qua là vừa tối.
Có những hôm gặp mưa ngang đường, nước lũ lên ngập lênh láng, cây cối từ thượng nguồn lao phăng phăng xuống hạ lưu. Ðại đội cử những người khoẻ mạnh, bơi giỏi chặt dây rừng nối từ bờ bên này buộc vào gốc cây bên kia và lần lượt dòng từng bao gạo sang sông. Một hôm về gần đến nhà Huy bảo tôi tạt vào rừng, hai thằng bỏ bao gạo vào gốc cây, chui vào nương lạc của K thu dung. Huy bảo: Này khẽ chứ nhé, bọn chòi canh mà nhìn thấy là nó bắn thật đấy!
Huy làm nhanh lắm, thoắng một cái hắn đã có một ôm xuống suối, hai thằng rũ thật sạch, vác lên bờ vặt lạc cho vào mấy ống nứa non và đốt lửa. Huy thì vừa đun vừa quay ống nứa, tôi thì bẻ một cành cây ra sức quạt cho khói tản ra, tan đi dưới tán lá rừng, hợp đồng khéo lắm.
Xong xuôi, hai thằng ngồi dựa vào gốc cây đánh một trận vằn bụng. Số còn lại cho vào túi cơm mang về cho tiểu đội . Lúc ca cóng Huy nhanh mạnh như con gấu, khi về gần đến đại đội hắn đi dặt dẹo như thằng ốm nặng. Người quản lý đại đội chờ gạo lâu quá hỏi:
·          -Hai anh tụt tạt ở đâu bây giờ mới về, lại ca cóng phải không? Huy mặt mày thiểu lão bảo:
·          -Ðang đi thì lên cơn sốt, nhờ thằng Hậu áp tải mới về đến đây đấy!
Lúc bấy giờ tôi mới thấy rõ cái biệt tài và biệt hiệu chuyên tụt tạt và ca cóng của Huy.
Cuối năm 69 và năm 70 -71 chiến trường Tây Nguyên vô cùng căng thẳng. Non-Lon đảo chính, Cam-Pu-Chia, nơi cung cấp lương thực cho chiến trường Miền nam gặp rất nhiều khó khăn nhất là mặt trận Tây Nguyên.Trang phục thiếu thốn, bộ đội mặc quần áo vá để đánh giặc.Mỗi ngày được cấp một phảy năm lạng gạo chia làm ba bữa, mỗi bữa chỉ được hơn một bát cơm, ai tham ăn sơi hơi đầy một tý thì coi như đồng đội mình bị đói. Cái đói dai dẳng dằn vặt và tiêu hao sức khoẻ người lính, nó ngấm ngầm làm xuy đồi đạo đức Cách mạng bởi vì có thương yêu nhau đến đâu cũng không ai chịu đói để người khác ngày nào cũng ăn no hơn mình.Thế là mỗi lần sới cơm:Tám con mắt đổ dồn vào cái bát B52 khốn khổ, người ăn tham dù có khéo đến đâu cũng không che được tám con mắt sáng quắc đang dõi theo kia.Cũng không ít những đồng chí của mình bị đồng đội lia bát xuống suối, phải ăn bằng vấu bương.
Chính vì thế nên đại đội tổ chức cho bộ đội đi cải thiện bằng lấy nhiều măng và rau rừng về ăn thêm.Thôi thì hổ đốn đủ loại: Măng, bống báng, vả, rau tàu bay, rau vòi voi, môn thục, chuối rừng nghĩa là cái gì ăn không chết người thì đều khợp được cả. Mỗi ngày phải có từ hai đến ba người mang theo gùi và dao găm đi cách đại đội khoảng nửa ngày đường tìm vào nương bỏ hoang của dân để đào sắn về độn thêm cho bộ đội. Khổ hết chỗ nói.
Ănđói mặc rách cộng thêm điều kiện khí hậu ác nghiệt, sốt rét triền miên, người lính thời gian nằm viện điều trị sốt rét còn nhiều hơn cả bị thương, bộ đội chết về sốt ác tính không phải là ít.
Thế rồi cái gì đến đã đến. Hôm ấy tôi cầm gùi xuống nhà bếp đi cải thiện, đang ngồi chờ anh nuôi nắm cơm thì bỗng thấy người mình nổi gai ốc, hai bên má lạnh buốt, co giật liên hồi, mồm ngáp vặt và sán vào bên bếp vẫn thấy chưa đủ ấm. Anh Thụ cùng đi bảo:
Thằng Hậu sốt rét rồi, không đi được đâu! Lên y tá lấy thuốc nhanh !
Thế là tôi sốt-sốt liên miên, cơn nọ gối với cơn kia, ngày này qua ngày khác hàng triệu con ký sinh trùng sốt rét tàn phá cơ thể non nớt ấy. Có lẽ đại đội đã hiểu cái nguy hiểm đợt sốt đầu tiên của lính mới như tôi cho nên rất quan tâm: Chiều chính trị viên lên sờ đầu kiểm tra nhiệt độ, động viên tôi cố gắng đừng bỏ bữa - Tối đại đội trưởng đến nhắc không nên nằm nhiều, cố gắng vận động tránh sốt rét ác tính.Y tá đại đội kiểm tra nhiệt độ liên tục, thuốc uống , thuốc tiêm người tôi như lả đi. Mỗi cơn sốt rét run bần bật, đồng đội dùng tất cả chăn quấn lên người mà rét không chịu nổi.
Một tuần sau, cơn sốt thưa hơn, chính trị viên bảo tôi cố gắng lên thao trường xem anh em tập. Anh Phú bảo: Cậu lên đây ngồi xem, lúc nào mệt thì mắc võng nằm nghỉ. nhà một mình, nằm nhiều nguy hiểm lắm.
Hàng ngày tôi vác súng cùng bộ đội lên thao trường. Cái nắng nhạt nhoà những ngày cuối thu, khu rừng khô ráo không còn ẩm ướt như mấy ngày trước nữa.Bộ đội từng tốp tập theo khoa mục của mình:Tiểu đội dò gỡ mìn mỗi người có một chiếc thuốn, một que nhỏ làm động tác dò mìn căng chùng nổ, tìm mìn các loại chôn dưói đất.Tiểu đội cắt hàng rào kẽm gai làm quen với đủ loại hàng rào đơn kép, loại hàng rào bùng nhùng nằm ngửa ra, cắt sáu mối mới gỡ ra được.Thế rồi đội hình gá bộc phá, đội hình đánh công kiên chiếm lĩnh lô cốt đầu cầu.Tiếng người chỉ huy ra các tình huống cho bộ đội sử lý, tiếp cận, đánh phá mục tiêu.
Cứ khoảng chín giờ sáng là tôi lại bắt đầu ngáp vặt, người gây lạnh, sưn sửn sốt.Trung đội trưởng cho tôi nghỉ về võng uống thuốc. Bắt đầu lại một cơn sốt rung cả võng, người toả nhiệt nóng hầm hập mà bên trong thì rét không chịu được.Trưa bộ đội nghỉ luôn trên thao trường bởi vì về đến nhà lại leo lên thao trường vừa xa, vừa dốc bộ đội thì anh nào cũng dọ dẹo vì thiếu ăn và sốt rét.
Tôi vừa lên thao trường vừa sốt, tóc bắt đầu rụng từng mảng, vuốt mạnh một cái là có một nắm tóc đi theo. Không có gương để xem mặt mình nó còn giống thằng Hậu ngày xưa nữa không? Thỉnh thoảng ra bờ suối soi mình xuống dòng nước thấy mây trắng ở ngay trên đầu và một gương mặt lạ hoắc, bủng xì, tóc tai phờ phạc, lơ thơ vài cụm. Ngày nào chúng tôi vào chiến trường còn thơm mùi sữa mẹ, áo quần bảnh bao đầy chất lính chủ lực. Ði qua đoàn quân sốt rét và thương binh chuyển ra Bắc thấy họ bủng beo, ẩm mốc, mùi gây gây đặc chưng của kẻ chuyên nằm hầm. Giá như những người mẹ, người vợ mà gặp chồng, con họ ngoài mặt trận thế này, chắc không ai cầm được nước mắt.
Một lần ở trên thao trường về, tôi lại sốt, chân tay rã rời, rủn ra đi không vững nữa. Khẩu súng trên vai nặng chịch, mắt hoa, người chao đảo như say sóng. Bộ đội đã về từ lâu mà tôi vẫn run rẩy, lập cập trên lưng chừng dốc.Tự nhiên tôi khóc, vừa đi vừa khóc, nước mắt chảy đầm đìa rồi rớt xuống nền đường. Bỗng có tiếng chân người chạy phía sau:Ông tướng nào còn tụt tạt ở đây? Hậu hả, sao lại khóc!Thôi đưa anh cõng.
Anh Hựu- Chính trị viên phó đại đội hôm nay qua tiểu đoàn bộ báo ban về muộn gặp tôi giữa đường và cõng tôi về đại đội bộ, anh bảo:
Thằng Hậu dạo này sốt ác liệt quá! Có lẽ ngày mai cho nó lên quân y tiểu đoàn để chăm sóc và nghỉ ngơi một thời gian, ở nhà dễ bị ác tính lắm!
Từ khi bước chân vào đời lính đến nay tôi đã có ba lần khóc, khóc thật sự, khóc trong thương cảm và tủi hận: Lần đầu tiên khi lên tàu ở Phổ Yên- Bắc Thái, sau bốn ngày con tàu mải miết đưa chúng tôi nhằm về phía nam, qua biết bao nhiêu đồng ruộng, núi đồi, bao nhiêu thành phố lùi lại ở phía sau. Qua Nghệ An rồi Quảng Bình những dãy núi đá vôi ẩn hiện rồi chìm vào ánh chiều chập choạng.Tôi một mình ra đứng ngoài đầu nối toa tàu, trên trời mây bảng lảng, thỉnh thoảng một bụi mây rắc xuống vài cơn mưa nhẹ hạt, con tàu cứ xình xịch lao về phía nam. Gia đình tôi giờ này đang làm gì nhỉ? Mẹ có biết con đang ở đâu không, con ở xa lắm rồi, không biết liệu có ngày quay trở lại chăm lo cho mẹ và thế là tôi khóc. Ðến khi có ai đó đặt tay lên vai tôi và bảo: Ði vào trong toa cho đỡ lạnh, ở ngoài này dễ bị cảm lắm!
Lần thứ hai khi vượt sông Sê-Rê-Pốc sang bên kia dừng lại ở một bãi khách. Cuối tháng bảy, mưa tầm tã, cứ mười ngày hành quân được nghỉ một ngày. Tôi mắc võng nằm cạnh người đại trưởng, mưa càng ngày càng nặng hạt, nước gõ nhịp trên mái tăng, bốn bề nghe tiếng mưa rơi và thác đổ. Phía bên cạnh, chiếc đài bán dẫn của đại đội đưa một bản tin chiều:Miền Bắc bị vỡ đê, khu vực Lâm Thao - Phú Thọ nhà nước phải huy động máy bay thả bánh mì và giúp dân sơ tán. Mẹ và các cháu có sao không? Ai còn ai mất, có bốn anh em thì ba đứa vào bộ đội, nứơc ngập mênh mang, ba bề đê vỡ, lợn gà, lúa má ai lo cho mẹ, còn bốn cháu nhỏ của chú thì sao đây. Thế là tôi khóc, dòng nước mắt cứ thế tuôn trào, niềm thổn thức ngập tràn trong tiéng mưa của rừng, của núi.
Ngày hôm sau y tá đại đội hộ tống tôi lên tiểu đoàn bộ.Tiểu đoàn nằm cách các đại đội khoảng mười lăm phút đi bộ. Lán trại thì bố phòng nhà ở, hầm hố giống như các đai đội chiến đấu, nhà nọ cách nhà kia vài chục mét. Hầm quân y nằm ở ven suối tôi thấy có vài chiến sỹ mặt xanh, nanh vàng của đơn vị bạn đã đến trước.
Chúng tôi được ăn sáu lạng gạo một ngày, duy trì ba bữa cơm. Chín giờ sáng được một cốc sữa bột, hai giờ chiều lại một cốc. Sáng, chiều uống thuốc và tiêm theo phác đồ điều trị sốt rét, ai sốt nặng quá thì gửi về bệnh xá trung đoàn điều trị tiếp.
Sau hai mươi ngày tôi có vẻ khoẻ hơn, các cơn sốt cách nhật cũng giảm, tóc vẫn rụng, da xám xì và cũng đỡ bủng beo.
Nghe đâu trung đoàn chuẩn bị nhận nhiệm vụ mới, chúng tôi được trả về đơn vị cũ, tôi được một trung đội trưởng lên báo ban và đón về đại đội.
Ðại đội biên chế đã thay đổi: Anh Xuyên sang tiểu đoàn phó tiểu đoàn 9. Về thay anh là một đại đội trưởng cao to, da trắng, tóc hớt cao với hàng râu quai nón rậm rì. Nhìn tướng mạo nghe có vẻ lãnh đạo dữ dằn lắm. Biết tôi quê ở Lâm Thao anh bảo:
Tớ cũng tên là Hậu-cũng ở Lâm Thao, ở xã Sơn Dương ấy, cạnh xã cậu, đúng không? Ðã biết quê mình bị vỡ đê chưa? Ngày xưa các cụ ở trên ấy nhưng hiện nay mình lại đi định cư ở Lập Thạch,thỉnh thoảng có công việc mới về quê thôi.Từ đó anh có vẻ mặn mà, thân mật với tôi hơn.
Ðại đội còn có mấy chiến sỹ nằm viện do sốt rét trở về.Tiểu đội tôi bổ xung thêm Thấu- Vào chiến trường năm 70. Ðó là một anh lính vừa bé lại vừa thấp, mắt me rằng, răng vẩu vàng xỉn, miệng rộng nếu cười lên thì chỉ thấy toàn răng là răng. Nghe đâu ông này kẹt sỷ lắm. Cái thời cuối 70 đầu 71 trung đoàn không đủ muối ăn, bộ đội thèm muối hơn cả thèm thịt.Tiểu đội ngồi ăn cơm hắn xin ở đâu được ít muối hạt, không bỏ ra cho ai ăn cả, cứ thậm thụt thò tay vào túi bỏ từng hạt muối ăn mình.Thuốc rê thì hắn chỉ quen xin, không muốn cho ai bao giờ, ai xin đuợc một điếu ít nhất phải cho hắn cái gì hoặc là đồng hương đồng khói. Cái ngữ ấy thì tôi chúa ghét.
Cuối năm 1971 chúng tôi chuyển ra khu vực KàLeng -Xa Thầy củng cố hậu cứ, vừa huấn luyện, vừa phát nương làm rẫy. Nghe đâu chuẩn bị đánh lớn, bộ đội phát rẫy để đưa dân ra vùng giải phóng.
Chúng tôi ở dọc theo một con suối lớn, văn thư lên tiểu đoàn đem về mấy gùi dao quắm. Mỗi người một con, khoán định mức là 800m2/đầu người, ngày không làm xong thì tối làm tiếp. Các tiểu đội lăn lưng ra mà làm, ban ngày phát tất cả các loại cây con và dây leo, tối đến tập trung hạ các cây to đơn độc bỏ lại. Người ta luôn đưa tin từ trung đoàn về các gương sáng phát nương giỏi, các kinh nghiệm tăng năng xuất lao động Kích động và đua nhau làm, đêm về hai cánh tay giật mình thon thót.
Một hôm đang phát trên nương, tôi thấy có tiếng ì ì đùng đục và kèm theo tiếng rít của gió, một loạt tiếng nổ rung chuyển cả cánh rừng. Có ai đó thét lên: B52 đấy, nằm xuống!
Người ta tranh nhau nằm bẹp cạnh thân cây đổ, tôi thì cứ ngóc cái đầu lên xem B52 nó như thế nào,Thấu kéo áo tôi xuống: Cái thằng Hậu- Nằm xuống không chết bây giờ!
Xong đợt B52 đại đội lệnh cho sơ tán về lán trại đề phòng địch có thể đổ quân.
Vừa đi Thấu vừa bảo: May mà nó rê sang hướng đường xe thồ, nó mà quay về hướng mình thì chết hết, có lẽ biệt kích nó phát hiện thấycông binh của mình đang làm đường đấy.Về đến nhà, chúng tôi chuẩn bị súng đạn nếu có lệnh xuất kích là đi được ngay.
Ðầu năm 1972 công việc phát nương, làm rẫy chuẩn bị hoàn thiện để bàn giao cho các đơn vị phía sau. Hôm ấy tôi mới nhận súng B40 loại súng hoả lực bộ binh chống tăng mạnh nhất lúc bấy giờ. Ðang lau súng bỗng nghe tiếng bom dội phía sau hậu cứ, tiếng trực thăng bay rất thấp kèm theo hàng loạt đại liên, phóng lựu nổ rất dữ dội. Bộ đội trên nương chạy ào về: Chuẩn bị xuất kích, địch đổ quân vào hậu cứ của ta! Tôi ngớ ngẩn: đây hay hành quân đánh nhau hả anh Thụ?Thụ bảo :-Chuẩn bị súng đạn nhanh lên!
Lệnh C6 chuẩn bị chiến đấu- C7 xuất kích! Thế là chúng tôi ôm súng chờ.Bom đánh đến chiều tối, trực thăng còn đảo thêm mấy vòng nữa rồi cút hẳn. Lúc bấy giờ chúng tôi mới biết một tiểu đoàn tân binh gồm: Lào cai,Tuyên Quang và Vĩnh Phú vào bổ xung cho trung đoàn 66 .Vượt sông Pô-Cô không may bị L19 phát hiện, gọi bom và trực thăng vây đánh, số lính mới chưa trải qua chiến đấu bỏ chạy tán loạn. Một số bị địch thả trực thăng bắt sống, số còn lại hy sinh khá nhiều. Khi những người lãnh đạo chủ quan, khinh địch thì rõ ràng tổn thất là rất khó tránh khỏi.Một đội hình lớn hành quân qua bãi tráng như sông Pô-Cô lại không có biện pháp vượt sông an toàn.Việc này người lãnh đạo tổ chức chỉ huy, đưa đón tân binh phải ra toà án binh mới đúng.
Hôm sau đại đội tôi tiếp nhận thêm mấy chiến sỹ mới mặt cắt không còn giọt máu. Họ bảo: Bạn của em bị bắt sống liệu có việc gì hay không? Tôi an ủi:Thì mình là tân binh đã biết cái gì đâu mà địch tra tấn, khai thác. Quá lắm là khai họ, tên quê quán và đoàn đi nam là hết phim chứ gì.Thôi kệ nó, đâu khác vào đấy, khéo nó lại ra bắc trước ông cũng nên.
Chuẩn bị cho cái tết 1972 đạt đội tổ chức cho một đội đi săn bắn thú rừng và đánh cá. Săn thú phải chọn những cao thủ người dân tộc, đã từng săn bắn nhiều rồi, họ mang theo súng đạn, tư trang, gạo nước và chốt luôn ở trên rừng. Bắn được con nào là phay luôn ra, cho lên lò xấy khô, đầy gùi thì hành quân về đại đội.Tôi xung phong đi theo đoàn quân đánh cá, sáng đi, tối về .
Hành trang của chúng tôi là mấy quả thủ pháo và lựu đạn tấn công, đi xuôi theo con suối đại đội đóng quân, ra phía đường xe thồ mà B52 đánh hôm nọ, gặp một con suối khá lớn. Mùa khô nước xuống thấp, trong vắt, đứng trên bờ phía mặt trời nhìn xuống các gợn thác, từng đàn cá lấp loá ánh bạc đang vượt dòng. Ði xuôi xuống hạ lưu gặp một vũng nước khá lớn, chúng tôi hạ trại chuẩn bị bộc phá.
Huy cầm trái thủ pháo, giật nụ xoè quăng xuống suối, (Tiến cáo) rút quả lựu đạn ném theo. Sau hai tiếng nổ tung nước trắng xoá, chúng tôi chạy xuống bờ nước. Mấy con cá nổi trắng vật vờ. Cởi quần áo ra, nhảy xuống đi! Chúng tôi tồng ngồng lao xuống suối.
Tôi lặn xuống mở mắt ra, cá trắng xoá tụm lại ở những dòng nước xoáy, cứ thế nhặt ném lên bờ. Bỗng Huy bảo: Có con gì này! Huy lặn xuống và vác lên một con ba ba khoảng vài chục cân. Mai của nó đã bị bộc phá đánh dập. Ôm ba ba lên, Huy bảo: Tôi lặn xuống đứng trên mai của nó cứ tưởng là hòn đá- Quái sao đá lại thấy loang lổ như vết máu- Lặn lần nữa thì đúng là con ba ba thật, giống này đã dập ruột rồi ăn vào là bị đau bụng đấy!
Buổi chiều chúng tôi lục tục trở về, tôi được phân công đeo con ba ba ấy.
Chấm dứt thời kỳ phát nương, chúng tôi chuyển hậu cứ về gần sân bay Kà-Leng ăn tết.

Chiến dịch mùa xuân năm 1972

Chiến thắng Ðắc-Tô Tân-Cảnh

Sau năm 1970 mặt trận phía bắc KON-TUM ta mới giải phóng được cao điểm 1015 (Ngoc-Rinh-Rua, Ngọc-Bầu-Biêng). Năm 1971 giải phóng tiếp sân bay Kà-Leng và một vài trận đánh lẻ đánh địch nống ra ngoài. Sang năm 1972 lực lượng của địch cơ bản không mấy thay đổi: Phía tây là cụm cứ điểm Pờ-Lây-Cần, tây bắc có căn cứ huấn luyện biệt kích Ðắk-Xiêng án ngữ. Phía bắc và đông bắc có cứ điểm Ðắk-Mót và cụm cứ điểm Ðắk-Pét chưa kể các chốt cấp đại đội và các trận địa pháo bố phòng ứng cứu lẫn nhau.Thị trấn Tân Cảnh là trung tâm kinh tế, xã hội, căn cứ hậu cần cung cấp cho dân và các điểm chốt toàn khu vực. Phía bắc Tân Cảnh là quận lỵ Ðắk-Tô, bên kia cầu Tân Cảnh đường 18 đi Ðắk-Mót là căn cứ 42 nơi đặt chỉ huy sở của trung đoàn 44 và sở chỉ huy sư đoàn 22 nguỵ. Phía ta trung đoàn 66 vẫn nắm chặt địa bàn hoạt động của mình. Ðầu năm 72 trung đoàn 95 được điều động từ đèo Măng-Giang lên án ngữ phía tây nam thị xã Kon-Tum .Ngoài các đơn vị chủ lực, ta còn có lực lượng bộ đội địa phương của tỉnh phối thuộc chiến đấu. Năm 1972 kết hợp cùng mặt trận Quảng-Trị ta mở chiến dịch Ðắk-Tô,Tân-Cảnh. Ngoài các đơn vị chủ lực có trên địa bàn, ta điều thêm sư đoàn 320 từ nam Lào về kết hợp tác chiến. Mục đích giải phóng quận lỵ Ðăk-Tô và thị trấn Tân-Cảnh, có điều kiện đánh xuống Diên-Bình,Võ-Ðịnh, giải phóng thị xã và toàn tỉnh Kon-Tum. Chúng tôi ăn tết trước trong hậu cứ Kà-Leng, bổ xung quân, nhận thêm súng đạn, quân tư trang và nhằm phía đông bắc hành quân. Ðường vào chiến dịch thật sôi động, các đơn vị hành quân theo kiểu cuốn chiếu, đơn vị này nghỉ thì đơn vị khác vượt lên. Ðánh lớn hợp đồng binh chủng nên có cả những đơn vị tên lửa B72 đi cùng. Hầu như những thằng lính mới cùng vào một đợt với tôi đều gặp nhau cả, hỏi thăm tíu tít. Qua đồng đội tôi được biết (Lượng thỏ) đánh Kà-Leng bị gãy chân đã được ra bắc, thôi thế là may cho nó, chắc sống một thằng rồi, còn lại chúng ta- tính sau vậy. Ðường hành quân cứ xuyên rừng mà đi, qua cánh rừng nguyên sinh cây cối ngút ngàn, đất xốp lên bởi biết bao nhiêu lớp lá cây rụng thành trầm tích. Có những cây cổ thụ hàng ngàn năm tuổi, cành lá vươn cao trong bầu trời xanh thăm thẳm. Chúng tôi đi trong tiếng hú của bầy vượn gọi nhau ăn sáng và dừng chân khi lũ vượn hú gọi tụ bầy. Có những địa danh không có trong bản đồ mà chỉ có người trong cuộc mới hiểu: Qua dốc có nhiều cây búng báng thì là dốc búng báng.Có con voi chết thì gọi là dốc voi mục hoặc suối trực thăng rơi�Khổ nhất những đơn vị pháo hoả lực, tất cả là trên vai người lính: Ngoài gạo nước quân trang của họ còn phải khênh vác súng đạn:Cối, Pháo tháo rời chia nhau từng chi tiết, cái gì không chia được thì tập trung khiêng. Cối 160 ly một người đeo củ đấm, ba người khiêng nòng, còn chiếc bàn đế thì khỏi phải nói: Nó to bằng chiếc nong phơi lúa, vừa đi vừa phát đường, lên dốc thì sáu người khiêng lặc lè, xuống thì dùng đòn bẩy mà bắn. Sau mười ngày hành quân chúng tôi dừng lại ở một dông đồi khá cao. Phía trên đại đội tôi ở là tiểu đoàn bộ đóng quân.Phía trước đã nhìn thấy mái tôn sáng loá của căn cứ Ðăk-Xiêng.Thụ bảo: Mày sang dông bên phải chỗ anh nuôi ở nhìn thấy cứ điểm Pờ-Lây-Cần đấy! Vậy con đường chúng tôi đang đi xuyên qua hai cứ điểm của địch.Tìm chỗ đào hầm xong, Huy bảo:ở đây dốc thế này đào hầm khoét cho tiện, cứ ba người một hầm. Anh Thụ lên đại đội hội ý về tôi mới hiểu: Ðơn vị chia thành từng cung đoạn vận chuyển lương thực, súng đạn vào phía trước. ở đây rất gần hai căn cứ của địch cho nên yếu tố bí mật địa điểm đóng quân phải đưa lên hàng đầu. Nhiệm vụ của chúng tôi là:Ba giờ chiều nhận hàng của đơn vị bạn chuyển đến, đóng hàng xong đến năm giờ chiều gùi ra bờ sông Pô-Cô là vừa tối để vượt sông. Ði khoảng hơn một tiếng là đến kho bàn giao cho đơn vị bạn xong rồi quay về. Ðến nhà khoảng mười một giờ đêm, xuống bếp anh nuôi lấy cháo về, ăn xong rồi đi ngủ. Ngày mai lại tiếp tục, không ai được nghỉ gùi. Chúng tôi cứ tuần tự như thế mà làm,hôm thì tôi gùi gạo, hôm gùi đạn hoặch thuốc nổ. Có lẽ không một quốc gia nào có một đội quân anh hùng như quân đội nhân dân Việt-Nam. Họ thì binh chủng nào theo binh chủng đó: Không quân chỉ biết không quân, xe tăng thì cứ xe tăng mà tiến. Còn bộ binh thì hành tiến dưới sự yểm trợ của hoả lực các loại.
Chúng tôi thì không: Cái gì cũng từ tay người lính: Ðói thì phát nương làm rẫy, quần áo rách thì vá mà đánh giặc, hết gạo, hết đạn thì gùi về mà ăn, mà bắn địch. Xe tăng, pháo binh, quân y cũng như nhau mà thôi.
Ðịch đã phát hiện dấu hiệu chuyển quân của ta, chúng tung những nhóm biệt kích, thám báo cắt rừng về phía đường vận chuyển. Một lần nhóm biệt kích gặp đoàn gùi của C5
Pháo địch bắt đầu bắn vào đường vận chuyển, lũ thám báo chỉ cần phát hiện ra một đoạn đường là chúng chấm toạ độ gọi pháo câu đến khá chính xác máu chiến sỹ ta đã đổ trên từng cung đường vận chuyển.
Một hôm tôi gùi quả đạn cối 120 ly, kể cả liều phóng phụ và hòm gỗ nặng khoảng hơn hai mươi cân.Vượt sang bờ sông bên kia đi khoảng hơn một tiếng, pháo địch không hiểu sao câu đúng đội hình của ta, giáp kho đạn.Tiếng đạn rít trên đầu kèm theo tiếng nổ chát chúa và mảnh bay lắc cắc. Ðêm tối như bưng, tiếng người phía trước lao sao bước vội trên lá mục, tôi chỉ còn biết sờ xuống sườn đồi, mắt căng ra, chỗ nào tối xẫm không có vệt lân tinh bám trên lá mục là con đường dẫn vào kho đạn. Lại một tiếng rít ghê người, tôi nằm xấp xuống, hòm đạn dập xuống lưng, ngực tôi va vào một khúc gỗ đau điếng. Phía trên dốc toé lửa kèm tiếng nổ nhức óc, vẫn chưa chết !Tôi nhổm dậy mò mẫm tìm vào kho đạn.
Ngày hôm sau một toán biệt kích cắt rừng gần chỗ đại đội tôi đóng quân, gặp đơn vị bạn đi gùi về hai bên bắn nhau dữ dội, địch chết một và một tên bị thương.Tiểu đội tôi được lệnh xuất kích.
Chờ trinh sát tiểu đoàn xuống, chúng tôi theo bản đồ cắt rừng đi về phía một bản dân tộc bỏ hoang.Trinh sát đi đầu, cách nhau ba mét là Thụ, sau nữa là Huy, tiếp đến tôi B40 và sau cùng Thấu. Cắt ra một con đường xe ngựa bỏ lại từ hồi Ngô-Ðình-Diệm, chúng tôi lần dần vào bản.
Phía xa thấp thoáng bóng cây ăn quả, chắc là xắp đến bản rồi.Trinh sát vẫy tay ra hiệu cúi thấp người xuống, pháo địch bắn vu vơ sang sườn đồi bên sông.Tôi cúi được một lúc mỏi lưng lại nhổm lên,Thấu đi sau quát nhẹ:- Cái thằng này! Thấp người xuống!
Có vết dày nguỵ in trên nền đất ướt, một vệt cỏ rạp xuống như có ai lê trên đất, thế rồi một cuộn bông băng Mỹ vứt lại trên mặt cỏ máu còn tươi nguyên.
Mặt ai lấy biến sắc - Ðịch rồi, đi thưa ra! Người ta nhớn nhác tìm kiếm hai bên, tôi cứ như người đánh trận giả, đã biết đánh nhau với biệt kích là thế nào đâu! Thay cho tìm địch, mắt tôi cứ ngước lên ngọn cây xem cây xoài nào nhiều quả, cây mít nào có quả thấp để tý nữa hái mang về cho tiểu đội.
Ði tiễu biệt kích như thế này kể ra nguy hiểm thật. Rõ ràng địch còn nằm trong bản, có thể do có thằng bị thương nên chúng nín thở tránh chúng tôi để chờ trực thăng bốc về hậu cứ. Còn như chúng chủ động hoàn toàn :Sáu thằng nguỵ nằm chờ sẵn-Sáu ông Việt cộng từ ngoài bản đi vào ngơ ngơ, ngác ngác chờ đến thật gần chỉ cần một băng đại liên là ăn đủ.
Có lẽ nghĩ thế nên chẳng ai muốn xông xáo làm gì , tốt nhất là về báo cáo không tìm thấy.Thế là chúng tôi rút quân! Ði ra khỏi bản tôi cứ tiếc cho chùm xoài ngon mà không ai cho dừng lại.
Mấy hôm nay pháo địch bấn vô tội vạ vào khu vực chúng nghi ngờ, bom đánh vào ven sông, đã có nhiều chiến sỹ hy sinh. Pháo từ Ðăk-Xiêng bắn vọt qua đầu chúng tôi nổ ình oàng phía sau dông đồi tiểu đoàn đang ở.Thỉnh thoảng đâu đó lại nghe tiếng trực thăng lạch phạch như đang đổ quân hay bốc biệt kích chuyển đi chỗ khác.
 Dạo này tôi lại sốt, những cơn sốt về chiều nhiều khi phải bỏ buổi không đi gùi được. Một hôm đại đội gọi tôi, Nguyễn Quốc Kỳ( cùng quê, cùng nhập ngũ với tôi) và Thấu mang toàn bộ trang bị lên chốt trên đỉnh đồi tiểu đoàn đang ở.Trên đó có một con đường mòn vắt qua dông đồi ngay cạnh tiểu đoàn bộ đóng quân. Không biết đường của ta hay đường của biệt kích, vết người đi lại thường xuyên và còn rất mới.Tốt nhất cho một tổ chiến sỹ ốm yếu lên chốt chặn là an toàn nhất.
 Chúng tôi lịch kịch lên cao điểm.
Trên điểm cao gió rất mạnh, trời mùa đông lên cao càng lạnh, gió hun hút làm ngả nghiêng lá cây chao đảo. ở đây toàn cây cổ thụ, cành lá vươn dài cao đến ba, bốn chục mét. Ðất ẩm mục, xốp ra, bước lên xồm xộp như đi trên nệm cỏ.
Thấu chỉ cho tôi và Kỳ mỗi thằng cảnh giới một hướng sau đó quay về một gốc cây to dưới sườn dốc: Thấu bảo:- Chú ý cảnh giới đấy! Có gì xuống đây báo cho tôi, lúc nào cần thay gác thì gọi!
Chúng tôi thay nhau cảnh giới, nghe pháo bắn tam toạng tôi bảo Thấu tranh thủ khoét một chiếc hầm nhỏ dưới gốc cây phòng khi phaó bắn.Tôi và Kỳ đem thêm vỏ chăn lên để quấn cho đỡ lạnh, ngày vẫn ba nắm cơm một bi đông nước hành quân lên điểm chốt.
 Buổi sáng ngày thứ tư ngồi dưới một gốc cây rất to có hàng rễ bạnh ra, tôi ôm B40 ngước cổ xem một đàn vượn kiếm ăn ngay trên đỉnh đầu. Con đầu đàn vô tư nhảy múa, chum miệng hót gọi bầy. Giá như ở trong hậu cứ thì mày chết ngay với bố rồi con ạ! Tôi nghĩ bụng.
 Bỗng có một loạt tiếng Miền nam cất lên:- ở đơn vị nào? Ðơn vị nào nói đi!
Mặt tôi biến sắc, một toán người nam có, nữ có, vừa kinh lại vừa thượng đang túm xung quanh Kỳ. Không hiểu nó ngủ gật hay làm cái gì để địch đến tận nơi mà không biết! Trong đầu nghĩ ngay là gặp địch rồi, toàn quân Miền nam cả . Tôi chĩa khẩu B40 về phía địch quát to:
 - Tất cả đứng lại! Giơ tay lên!
 Ðoàn người thất kinh khi thấy khẩu B40 lăm lăm chĩa về phía họ:
 - ấy ấy không được bắn- Không được bắn!
Một người đi đầu cầm súng AR15 vừa xua tay vừa tiến lại phía tôi.
Dừng lại! Tôi ra lệnh-Tất cả bỏ súng xuống! Ai còn tiến thêm bước nữa tôi bắn chết!
 Ðoàn người lập cập bỏ súng xuống giơ tay xin hàng. Lúc đó Kỳ vẫn lóng nga lóng ngóng đứng lẫn với đội hình của địch.Thế có chết hay không! Nếu tôi nổ súng chắc nó cũng tiêu đời còn gì.
 Tôi quát:
-Kỳ! Mang súng chạy lại đây nhanh lên!
Cầm khẩu AK trên tay tôi mới thật yên bụng, dồn toán người ấy tập trung vào một góc, tôi bảo Kỳ thu súng địch gom lại, tháo hết đạn và cho Kỳ chạy xuống tìm Thấu.
Một lúc sau Thấu lập cập chạy lên, mặt tái mét, hắn nhìn thấy toán người đã hiểu ra sự việc vội vàng quay đầu về báo cho tiểu đoàn bộ.
 Khoảng ba mươi phút sau Thấu đẫn một phái đoàn gồm ban tác chiến, ban chính trị và ban tham mưu lên làm việc. Sơ bộ ban đầu họ khai là đoàn cán bộ dân vận huyện 40 đi công tác qua. Con đường này là đường nối giữa huyện 40 với tỉnh uỷ tỉnh Kon-Tum, là đường của ta chứ không phải đường của địch. Dù sao cũng mời họ về tiểu đoàn để xác minh lại.
 Thấu là một chàng xấu trai lại háu gái- Thấy cô bé người thượng mũn mĩm ngồi cạnh chiếc gùi, Thấu bảo:
- Có hút thuốc không?
 Từ ngày bé hôm nay mới Thấu sởi lởi như vậy. Tưởng rằng cô ta chỉ vê một điếu nhỏ để hút là cùng. Ðàng này đồng bào lại bảo : Cho mình xin-Và thế là tiện tay túm luôn một nắm bỏ vào túi.Thấu tiếc đứt ruột, cho chết, đã keo kiệt lại còn sỹ!
Hôm sau chúng tôi lục tục xuống núi, kết thúc một tháng vận chuyển đảm bảo hậu cần cho chiến dịch . Chúng tôi được nghỉ vài ngày chuẩn bị súng đạn, quân tư trang và tắm giặt. Một tháng đi gùi hầu như chỉ tắm theo kiểu du kích, giao hàng xong quay ra bờ sông vừa lội, vừa giặt lại vừa tắm.Vắt khô quần áo, chùm lên đầu về đến nhà là gần khô. Cái lũ bẩn ở với nhau chẳng ai chê ai hôi cả.
Lệnh hành quân, đơn vị vượt sông đầu tiên vào lúc chạng vạng tối, chúng tôi cứ nhằm giữa hai chốt địch mà đi. Có điều rất lạ là khi chúng tôi ở bên này sông thì pháo địch bắn dữ dội vào phía bờ bên, khi sang đến nơi thì pháo chuyển làn sang hướng khác, để lại những vạt rừng cây cối bị phạt trơ ra và mùi khói pháo khét lẹt.
Ba ngày luồn rừng, hai căn cứ của địch đã ở phía sau, nghe đâu chỉ hai ngày nữa là đến Tân Cảnh. Các đơn vị tản theo đội hình, củng cố hầm hào chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu.
Không khí đại đội rất căng thẳng, một ngày không biết bao nhiêu lần hội ý. Ðoàn cán bộ tham mưu, tác chiến của trung đoàn và tiểu đoàn chuẩn bị đi khảo sát địa hình và nắm tình hình địch. Các đại đôi có đại đội trưởng và ba trung trưởng đi trước.Chúng tôi ở lại tiếp tục làm thao trường huấn luyện.
Sau một tuần nghiên cứu địa hình, tiểu đoàn đắp xa bàn cát, giao nhiệm vụ cho các mũi tiến công. Lúc đó tôi mới thấy nhiệm vụ đại đội mở cửa là vô cùng quan trọng. Không phá được hàng rào, không đánh chiếm được lô cốt đầu cầu để đơn vị bạn phát triển vào bên trong coi như là thất bại, là tổn thất rất lớn. Nhìn trên sơ đồ thấy địa hình bằng phẳng, lần đầu tiên đánh thành phố, đánh vào trận địa bố phòng kiên cố của địch chắc là ác liệt lắm.
Hàng ngày tiểu đoàn trưởng Bùi-Thanh-Hiêm người Thanh-Hoá xuống đại đội tôi theo dõi bộ đội tập trên thao trường. Ðó là một tiểu đoàn trưởng đầy nghị lực, quyết đoán và cũng rất nóng nảy. Anh đã từng chui vào hàng rào của địch, bò theo hướng tiền nhập của đại đội tôi, chỉ cho chúng tôi biết từng mô đất, từng bãi lầyvà khi bò lên mặt đường 18 nấp sau tà luy đường và leo lên hàng rào kẽm gai như thế nào. Nhìn trên xa bàn, nghe tiểu đoàn và đại đội chỉ dẫn tôi cũng mường tượng ra nhiệm vụ của mình. Một hôm anh Hiêm đang giảng trên xa bàn và hỏi tôi:
-Thế nào, đồng chí xạ thủ B40? Bắn mấy phát thì hạ gục lô cốt đầu cầu này?
 Tôi không đắn đo:
-Báo cáo thủ trưởng- Chỉ một phát thôi ạ!
-Ðược-Nhưng căn cứ vào đâu mà đồng chí khẳng định như vậy?
-Thưa thủ trưởng- Gần một năm vác B40 nếu tôi không bắn tin cái lô cốt to như thế kia thì tôi không phải là người lính của K8!
Khá lắm-Nhưng tôi nói trước:Vào trận nó không bình tĩnh như tập trên thao trường đâu, xung quanh pháo bắn, đạn nổ, phải biết vận dụng thực tế, lợi dụng địa hình để hạ gục mục tiêu và bảo vệ được mình, nhớ chưa!
Cho đến nay tôi vẫn nhớ câu nói đó.
Cuối tháng 3 năm 72 chúng tôi nhận lệnh vào phía trước, rừng ở đây toàn vầu và nứa, con đường thì lên dốc liên tục, đã có vết pháo bắn tới đây. Ðại đội ém quân ở một dông đồi nghe nói khi vượt sang bên kia là nhìn thấy quận lỵ Tân Cảnh đèn nê-ông sáng quắc.Thế là xắp xuống đồng bằng rồi, từ đây đánh tiếp thị xã Kon-Tum và chúng tôi vĩnh viễn chấm dứt cảnh ở rừng , ở núi.Tôi chỉ mong như vậy.
Ðã nghe tiếng đề-pa của khẩu pháo rất gần, có lúc nòng hướng về phía khác thấy tiếng nổ rất xa, vọng ình oàng vào núi. Có khi ba, bốn khẩu quay về phía chúng tôi nghe đạn bay vo vo như đàn ong trên đầu và nổ nối tiếp nhau thật đáng sợ.Có lẽ quân ta ba bên bốn bề đang tới gần, liệu có cánh nào bị lộ chưa? Máy bay quần đảo, rà sát các khu rừng quanh quận lỵ, tiếng trực thăng lạch phạch hướng thị trấn, có lẽ thằng địch đã thấy đấu hiệu không bình thường ở mặt trận này rồi.
Vừa đào xong hầm lại có lệnh quay ra.Thế có chết không, làm ăn kiểu này có mà nướng quân, có định đánh hay thôi không biết.Tôi đã muốn nổi cáu, tức nhất là cái kiểu quay vào quay ra như thế này, bom pháo nó tương phải thì chết cả lũ.
Ra đến vị trí cũ thì đóng quân, anh Hậu bảo: Các hướng khác còn vướng chưa vào kịp, để đảm bảo bí mật cánh bên này phải chờ vì đây là trận đánh lớn, hiệp đồng binh chủng.
(Còn nữa...)