Thứ Hai, 7 tháng 6, 2010

PHẦN 5

Tuyến phòng thủ MaÐrắc đập tan lữ dù 3
((Máu ở đường 21, Nhật ký chiến tranh, trang....)

Qua những ngày lặn lội trong rừng, những đỉnh núi cao tưởng chừng như chui vào lớp mây mù với hang động hiểm trở. Hôm nay đã tụt xuống bên này và nghe pháo địch bắn rất gần. đường xuyên rừng loanh quanh quá tôi không rõ hướng nào vào hướng nào cả chỉ mang máng rằng: Phía sau tôi là đỉnh núi cao ngất mà vượt qua nó là quận lị Khánh Dương. Trước mặt tôi chếch bên phải và bên trái chỗ nào cũng thấy tiếng những khẩu pháo điên loạn khạc đạn. Cơ hồ như mỗi đỉnh núi xanh nhấp nhô kia đều là chỗ ngồi của những cỗ pháo đáng sợ và căm ghét âý. Mỗi tiếng nổ từ đầu nòng làm rung rinh hạt mưa đêm còn đọng lại trên lá rừng là tiếng xé không khí của quả đạn bay ra, rồi nổ ùng oàng vọng vào trong núi. Chui vào giữa lòng địch với địa hình bất lợi cho chúng tôi trong khi kẻ địch lại nắm chắc địa hình và án ngữ trên các cao điểm. Cứ nghe tiếng súng lớn súng con thì coi như xung quanh chúng tôi chỗ nào cũng có địch.
Nghe đâu chỉ còn bốn tiếng xuyên rừng nữa là ra đến đường 21 đèo MaÐRắc đi Khánh Hoà. Chúng tôi phải vượt� sang bên kia đường ở đó hoàn toàn là đất địch nên việc tiếp tế gạo nước súng đạn là rất khó khăn, gạo lại sắp hết tính ra chỉ ăn được vài ngày nữa. Bắt buộc phải cho người trở lại Khánh Dương lấy hàng. Quay lại ư? Có nghĩa là phải vượt một đỉnh núi cao trọn một ngày. Tôi thấy ớn lạnh. Nghĩ mà sợ quãng đường vượt qua quá.
Bộ phận quay về lấy gạo ra đến con suối bìa rừng bị địch phục kích, may mà không ai hy sinh. Con đường huýêt mạch trở về hậu cứ đã bị cắt đứt, mọi liên lạc với chỉ huy sở tiền phương còn trông chờ vào đài 2w. Vì thế nên chúng tôi được lệnh vượt đường.
 Gần tối mới dám cho rút tổ cảnh giới trên đỉnh đại đội tôi đóng quân. Ðêm tập trung cả tiểu đoàn ven suối, chúng tôi lặng lẽ hành quân.
�Trong rừng trời tối như bưng, hai chân làm thay cho hai con mắt lần theo lòng suối với những hòn đá rêu bám trơn như mỡ. Những vỉa đá ngang ngạnh luôn thử �ống đồng� của những người vô ý, đau điếng nhưng chỉ dám xuýt xoa. Một vài người ngã lủm bủm, súng va vào đá chát chúa, cái chết luôn bám theo sự vô ý của con người, kiểu này lộ ra có mà ăn pháo! Không ai biết địch đóng ở chỗ nào cả, nhìn những khu rừng chìm trong màn đêm tôi linh cảm như có hàng nghìn con mắt dõi theo chúng tôi vậy.
Ra đến một vạt rừng gianh tôi mới nhận ra đêm nay có trăng. Bầu trời như chìm trong màu trắng đục. Sao rất thưa, thưa như bất kỳ ở một vùng rừng nào, không thấy một ngôi sao đổi ngôi, trăng đêm lạnh lẽo nhất là như đêm nay.
Dòng người bỗng nhiên dừng lại, phía trước là một bãi lầy không thể vượt qua được. Bỏ con suối chúng tôi chui vào một khu rừng dốc gần như dựng đứng. Hai tay đu người lên mà cũng vất vả. Âm thanh của khẩu cối nổ ở đâu gần lắm, tiếng vọng vào rừng rồi tan trong màn đêm tĩnh mịch.
Qua đỉnh núi này rối sang đỉnh núi khác, tôi tưởng như địch đã chờ sẵn chúng tôi lên, chuẩn bị một cuộc đọ súng, nhưng đến nơi lại thấy tiếng súng ở bên dông đồi và cứ như thế�.
Quá đêm gặp một nương của dân họ mới phát cây đổ ngổn ngang không thể qua được. Chúng tôi đành men theo sườn dốc, chui hoặc leo từ cây này sang cây kia khá vất vả vì mắc đồ đoàn, súng ống, rồi bộc phá�
Xuống một con suối khá rộng, nước sâu ngang ngực bùn sôi ùng ục dưới chân. Qua vạt nương ngô đang lên xanh tốt là con đường 21 chạy qua. Con đường trải nhựa còn hằn vết xích xe thiết giáp, cách nhau 3 mét, chúng tôi sách súng lúp súp vượt đường.
Bì bọp qua bãi lầy ven đường, chúng tôi leo lên một quả đồi trọc khá dốc, nhìn xuống con đường 21 rõ mồn một, đoàn người lồ lộ in trên màu sữa pha loãng của ánh trăng đêm. Một bản nhỏ nằm sát mé đường, mái tôn bắt ánh trăng trắng lấp loá. Cúi thấp người xuống! Ði thưa ra!
Tụt xuống sườn dốc dựng đứng, hai tay vịn vào chít và cỏ gianh cháy dở, ngã xấp, ngã ngửa, dép bật quai, cực không kể đâu cho hết. Từng đàn dĩn lại lăn xả vào đầu, vào cổ mà hít máu, ngứa ran mà không còn tay để gãi.
Loanh quanh hết xuống lại lên, chui qua lớp cỏ gì lá sắc hơn dao, mồ hôi túa ra sót như tra muối. Vừa sách dép vừa trượt như lăn, chúng tôi tụt xuống con suối khá rộng.
Sang bên kia, có một con đường mòn, có lẽ đường của dân vẫn đi làm thì phải. Dừng lại sỏ quai dép, không bám kịp tốp đi đầu quay nhìn lại phía sau cũng không thấy ai cả, coi khéo lạc mẹ đường rồi, loáng quáng rơi vào chốt địch thì toi mạng. Có bóng người lờ mờ phía trước, tôi hỏi:
-         Sao quay lại! Quân ta đi đường nào rồi?
-         �Không thấy thằng nào cả! Có khi lạc đường rồi!
-         Chắc không còn con đường nào khác đâu! Cứ đi thôi!
      Tôi để ý tìm dấu dép ven đường, có vũng nước đục ngầu chắc ai đó mới đi qua. Tôi bám lên phía trước nhưng cái cảm giác gặp mìn cứ rờn rợn, lẩn quất đâu đây.
Ðến một đoạn suối, chúng tôi lội ào qua bất kể khô, ướt, lại qua một đoạn suối nữa có bóng đen đứng chờ trên bờ:
-Lội khẽ chứ thôi! Phía trước có địch đấy, nhanh lên!
Ði thêm một đoạn nữa thấy bóng người ngồi lố nhố ven suối, một giọng ngái ngủ: Nghỉ đi! Ðừng hút thuốc! Mẹ buồn ngủ thật. Có ai phía sau tôi hỏi nhỏ: Thế nào, xắp đến chưa? Chẳng ai buồn trả lời chỉ thấy giọng nói ấy lành lạnh rồi tan vào trong sương.
Xắp sáng.
Lệnh C7 tạt sang bờ suối, các đơn vị còn lại đi lên phía trước. Sáng thật lạnh, quần áo ướt dính vào da thịt thấy nhớp nháp quá. Tôi cúi xuống định sắn quần lội qua suối bỗng một loạt đại liên nổ phía trước mặt. Lại một loạt đạn nữa bay chiu chíu trong màn sương, có giọng miền nam quát lên: Ðơn vị nào hả!? Ðơn vị nào? Lên tiếng lên!
Bộ đội lội ào qua suối, bùn đất sục dưới chân. Thằng C6 gặp địch rồi! Có ai việc gì không? Tôi bám theo đoàn người bò lên dông đồi. Lại thấy tiếng đại liên nổ ở phía sau, đoạn suối có người chờ chúng tôi ban nãy. Có nghiã là địch có cả trước và sau, chúng tôi lọt vào giữa, sáng ra chắc là ác liệt lắm đây.
Tiếng miền nam lại nheo nhéo bắt liên lạc, hình như chúng sợ bắn nhầm phải nhau. Không ai trả lời, chúng lại kéo cò. Bỗng một loạt AK từ bên này suối bắn sang, thế rồi đại liên địch kéo hàng băng dài vào phía súng vừa nổ, đạn phóng lựu kỳ cạch chớp lửa nổ đanh lắm. Trời sáng lờ mờ, chúng tôi vội vàng cấu trúc công sự chiến đấu. Không ai dám cuốc to, lưỡi xẻng thận trọng cắm vào trong đất. Tôi cầm lưỡi xẻng không có chuôi� mới thấm thía cán xẻng hơn bao giờ hết. Hành quân là vót sẵn cán mang theo, tôi thấy nó lỉnh kỉnh và quăng đi, bây giờ mới thấy nó quý hơn vàng.
Sáng rõ, tôi và Ninh cũng đào được cái hố cho hai thằng rúc tạm. Màn sương� vén lên phơi bày trước mặt toàn bộ cảnh vật mà đêm hôm qua vẫn mờ mờ, ảo ảo. Cái hầm tôi đào tưởng rất kín ai mgờ lại nằm trên một cành cây đổ, đứng ở đây nhìn xuống chân đồi rõ mồn một. Bên kia con suối là một vạt gianh rộng lan đến sườn núi loang lổ vết cháy. Con đường nhỏ mà đêm qua chúng tôi đi trông như con rắn len trong vạt cỏ gianh đang lên mơn mởn. Từ bờ suối lên đến hầm của tôi không đầy năm chục mét, gần quá!
Có bốn, năm tên nguỵ xuất hiện phía bên trái hầm, tôi nín thở, tim đập thình thịch và chuẩn bị thước ngắm. Lũ nguỵ cụm lại trên bờ suối, hai loạt cực nhanh bắn lên dông đồi, tiếng phóng lựu nổ bên trái hầm tôi, mảnh bay lắc cắc. Tất cả vẫn im lặng, căng thẳng quá, đánh nhau đến nơi rồi. Tiếng súng vừa dứt lại nghe tiếng cuốc đất thậm thịch, tôi ném đất sang hầm bên nhắc đào khẽ thôi. địch vẫn chưa biết chúng tôi chốt ở sườn núi này.
Có hai thằng đi lại phía tôi, một tên bảo:Thắng hả! Kêu zậy xem có phải đơn vị bạn không? Một tên nguỵ có lẽ tên Thắng lấy tay làm loa: Ðơn vị bạn phải hông? Ðơn vị nào thì lên tiếng lên! Bắn đây nè! Hai quả phóng lựu nổ,chúng tiến đến sát bờ suối.
Một loạt AK nổ rất đanh, một tên nguỵ chạy quay trở lại, lũ nguỵ trên đường nằm bẹp xuống bắn như vãi đạn. Phóng lựu bắn bừa lên sườn đồi, tôi vội lấy lưỡi xẻng che lên đầu, một động tác ngộ nghĩnh nếu mà ghi hình lại thì buồn cười lắm. Chúng bắn chán lại im lặng, thêm mấy tên nữa từ đâu lúp xúp chạy ra, tụm lại. Có tiếng nhí nhéo bên kia bãi gianh, một thằng đeo 2w bò ra, có lẽ chúng định gọi pháo câu đến chăng. Tôi cho tên thông tin vào đầu ruồi sẵn sàng nhả đạn.
Tên lính 2w nói cái gì theo tiếng lóng, rất gần mà tôi chịu không dịch ra được. Hình như thượng cấp của nó vẫn sợ bắn nhầm phải nhau nên cố gắng bắt liên lạc, gọi chán chúng lại cạch oành.
�Nắng đã nhuộm vàng sườn núi phía xa, không biết là mấy giờ rồi, trưa nay chắc nhịn ăn, bố ai dám xuống suối lấy nước nấu cơm bây giờ.
Im lặng tràn xuống thung lũng miền rừng này, không một tiếng súng nào nữa, có lẽ lũ nguỵ cũng đã quá chán rồi, chúng đi lại lố nhố và tụm lại chỗ thằng bị thương, có hai thằng mang võng ra đi ngang trước mặt tôi, gần lắm. Chúng khiêng thằng bị thương đi xuôi theo con suối tôi còn nghe hắn kêu: Chu cha! Lẹ lẹ lên, đau quá trời má ơi!
Tôi bảo Ninh ngủ để tôi cảnh giớí, nhìn hắn kéo chiếc gùi lấm lem kê lên đầu dựa vào vách hầm mà ngủ, mồ hôi toá loa bám đầy đất cát trên mặt.
Chúng tôi thay nhau ngủ, quần áo ướt át lấm lem như con dúi, thấy tôi dậy Ninh bảo: Chúng nó kéo nhau đi đâu hết rồi ông ạ!
Con đường vắt ngang qua bãi cỏ gianh ngập nắng, xung quanh im lặng, có tiếng pháo bắn ùng oàng vọng về, tôi và Ninh kéo nhau lên đồi.
Ðại đội tản ra trên cánh rừng thưa, anh nuôi đem gùi xuống khe suối nấu cơm, chúng tôi chen nhau trong chiếc hầm đào dưới gốc cây đổ, rễ cây bưng lên một khối đất ngiêng ngiêng thay chiếc nắp hầm chắc chắn, lại dựa vào nhau mà ngủ.
Một tiếng nổ khá to làm chúng tôi choàng dậy, lại tiếng ro ro vút xuống kèm theo tiếng nổ long óc. Mẹ, lũ này chơi toàn cối 106,7, sang thật. Có mấy chiến sỹ C8 đi qua chui vào tránh đạn, tôi nghĩ bụng: Ðông như thế này, mấy bố ngồi ngoài chắn mảnh đạn cho, càng tốt!
Ðịch bắn vu vơ một chập rồi im hẳn, chúng tôi ra khỏi hầm đi lại cho thoải mái. Nghe đâu chuẩn bị xuất kích, các tổ bắt đầu cưa gỗ làm hầm. Tôi xuống khe suối lấy cơm và đóng nước. Cái bếp nhỏ làm vội ven suối nước không chìm hết mắt cá chân, thấy anh nuôi vẫn hì hục móc hầm, tôi bảo: Này! Hành quân đến nơi rồi còn đào hầm làm gì? Chia cơm cho bộ đội đi!
Túi cơm mấy ngày không giặt nó đã lên men, vừa chua vừa mốc. Ôi dào, rũ qua� là được, ăn bẩn đã có ai chết bao giờ đâu.
�Chiều ngày 28 tháng 3 lại nhận lệnh bỏ gỗ, tiếp tục hành quân. Ðoàn người hướng về phía súng nổ, càng đi càng dốc, hết lên lại xuống. Những cây búng báng mọc chênh vênh bên sườn đá, loại cây này ưa đất dốc và sỏi đá mới lạ chứ.
Tiếng súng nổ mỗi lúc một gần, bên phải, bên trái. Hình như chúng tôi đang len vào giữa lòng địch, hướng nào cũng thấy những khẩu pháo điên loạn khạc đạn. Vừa đi vừa dừng, lúc tiến lúc lui, hình như còn dò tìm đường thì phải. Coi khéo mà chui vào ổ phục kích của địch thì toi mạng.
Xắp ra đến đường, nghỉ ăn cơm. Chúng tôi dừng lại ở một khe suối cạn, lấy vạt áo lau qua bát, bẻ cành cây rừng làm đũa, một đời lính ba đời tráng, có sao đâu.
Trời đã về chiều, ánh nắng không còn lọt xuống lòng khe nữa, có tiếng máy bay ào qua và tiếng bom nổ vọng vào khe núi. Người ta liên tiếp truyền lệnh giữ bí mật, bám sát đội hình.
Rẽ lên một khe nhỏ, chúng tôi chốt lại đào hầm. Ðời lính chiến đi đến đâu là đào hầm đến đấy
. Không biết chiếc hầm này nó có �se ri�thứ bao nhiêu rồi. Giá như gộp lại khối lượng đào đất của lính thì đã thành con sông chảy từ Hà Nội vào đến Sài Gòn rồi. Khủng khiếp thật.
Ba người thay nhau đào đào,cuốc cuốc, toàn đá tảng. Xắp tối rồi mới khoét được cái hố một người chui lọt. Tôi lấy bao cát cho đất vào và xếp chắn ngoài cửa hầm.
Hoàng hôn buông xuống, núi rừng như trầm lại, côn trùng bắt đầu kéo bản nhạc buồn bã, mù u. Nhìn vỉa đá gan góc trơ ra, tôi chán nản nhét xẻng vào bao. Cái tư tưởng chủ quan án ngữ mãnh liệt nhất là khi đã thấm mệt và chiến trường dìu dịu.
�Các trung đội chuẩn bị xuất kích ra chốt chặn đường 21. Cơm chiều chưa có, cái đói ở đâu ào đến quặn ruột, nghe đâu đại đội đã vét đến bao gạo cuối cùng rồi. Kiểu này đến nhịn đói mà đánh nhau đây.
Bóng đêm buông xuống thật nhanh, chúng tôi bám nhau men theo những vạt gianh rồi bì bõm xuống một bãi lầy. Tôi đi sau Bích ( Nam Hà) người A trưởng cối 60 vào chiến trường năm 67. Anh ta nổi tiếng gắt gỏng và rất ngang. Trăng đầu tuần đói so hắt ánh sáng yếu ớt xuống thung lũng. Bãi lầy cỏ mọc um tùm, bùn thụt đến đầu gối. Tôi đang dò tìm chỗ đặt chân thì Bích gắt:
- Cái Ð.. mẹ, đường ở đâu không biết!? Mấy cái thằng cán bộ đi đâu hết rồi!
Thấy có bóng người đứng lù lù phía trước, anh ta gắt:
- Ðường ở đâu!? Hỏi không nói, đứng ăn C.. người ta ở đấy à!
�Cái bóng đen ấy nói như quát:
 -Ðường đàng này! Ði đâu ra đấy! Không bám lên còn đứng mà nói tục!
 Bích nói bừa:
-Tục cái con C.. ông đây này!
Cái bóng đen ấy túm lấy cổ áo người A trưởng khốn khổ:
-Này ! anh nào đấy? Anh Bích phải không!?
- à, thủ trưởng Huy! Tôi tưởng ai!
-         Ði đường này không đi! Ðã gần địch lắm rồi đấy! Bám sát lên! Người tiểu đoàn phó ấy đã dịu giọng.
Tôi đặt chân lên bãi đất khô, anh Mão chính trị viên đại đội bảo:
Ðường 21 ở ngay đây rồi, khoảng 50 mét! Cứ bám theo đường dây điện thoại sang bên kia bãi lầy. Trước mặt là chốt của trung đội 2!
Lội ngang qua bãi lầy, đại đội bộ chốt cùng trung đội 1. Sườn đồi trống trải không một bóng cây với bãi gianh cháy nham nhở. Con đường ở ngay dưới chân đồi, ban đêm nhìn nó sao thấy hiền dịu quá. Mặt nhựa bắt ánh trăng sáng nhờ cách hầm chúng tôi đào khoảng 20 m.
Lại đào hầm, phần thức đêm, phần thì đói, người tôi như muốn lả đi. Anh Mão đi kiểm tra các trung đội về lôi trong gùi ra bánh lương khô cuối cùng. Bốn người chung một bánh lương khô, không là bao thế mà nó tỉnh táo và khoẻ hơn bao lần.
Trăng lên khỏi đỉnh núi bên kia đường, hầm chúng tôi đã đứng tạm được 4 người, tôi bắt đầu khoét ngách hầm thì anh Tẩm đại đội trưởng ấn vai tôi xuống. Một trung đội lính dù hành quân qua, dưới ánh trăng tôi đếm được 24 đứa. Chúng đi theo đội hình hàng một, mỗi đứa cách nhau 2 mét, rất đều, rất nhẹ.Tiếng dầy khua lách cách xuống mặt đường nhựa rồi tan vào màn đêm tĩnh mịch. Tôi hồi hộp quá, có đánh bọn này không đây.
Thằng cuối cùng đi qua hết điểm chốt của tôi, còn chốt B2 nằm sát mé đường, liệu chúng có phát hiện ra không?
Không một tiếng súng nổ kể cả chốổitung đội 3 khoá đuôi. Ðêm trở lại yên tĩnh lạ lùng, ánh trăng chảy dài như vô tận, những đỉnh núi xa bên kia đường mờ dần vì sương xuống, gió tràn về thật lạnh. Chúng tôi lại thay nhau đào và xúc.
Thế rồi không ai bảo ai, tất cả như ngừng thở lắng nghe tiếng động cơ ô tô xen lẫn tiếng gió lùa trên cây cỏ. Tiếng động cơ càng to dần, ô tô hay xe tăng, địch nhiều hay ít? Tim tôi như muốn nghẹn lại. Anh Tẩm báo cho trung đội� một chuẩn bị hoả lực, tôi kéo AK lại gần, đánh nhau thật rồi, hầm hố chưa đâu vào đâu cả, chắc là ác liệt lắm.
Cái giây phút đợi chờ căng thẳng ấy đã đến. Tim tôi càng nhảy trong lồng ngực khi một bóng đen lù lù nhô ra từ sườn đồi bên trái. Tiếng nổ tành tạch như cố ý ngậm lại cái âm thanh của động cơ máy. Ô tô! Sao lại chỉ có một chiếc!?
Tôi cúi sát mặt đất nghe xem phía sau nó còn xe nữa hay hết. Chiếc xe lăn bánh qua ngang chúng tôi rồi đi vào chồt B2. Tôi chưa kịp định thần thì một luồng lửa màu da cam kèm theo tiếng nổ inh tai chớp lấy chiếc xe. Hàng tràng tiểu liên xanh biếc nhì nhằng xiên vào cái bóng đen ấy. Lửa bùng lên từ thùng xe soi rõ bóng những tên lính nguỵ chấp chới kêu la. Chiếc xe hầu như chững lại vài giây rồi nó rú ga chồm về phía trước. Phía chốt B3 khoá đuôi, một vệt sáng xanh biếc của B41 bắn vọt qua nổ chớp xanh bên kia đường. Chiếc xe như con thú bất kham chồm lên, cõng theo cả khối lửa trên lưng. Chạy được khoảng 50 mét thì dừng lại, lửa bùng lên kéo theo những tiếng nổ lục bục.
Chỉ huy sở tiểu đoàn liên tục điện ra yêu cầu báo cáo lại trận đánh ban nãy, cần phải xác minh chính sác chiếc xe ấy chở cái gì để biết thêm ý định của địch, chúng chuyển quân hay rút quân.
Lửa đã tắt, đêm trở về với bản năng của nó, tất cả những gì vừa xảy ra với màn đêm thật vô nghĩa. Ðêm tĩnh tại mông lung cho côn trùng khóc than không nuối tiếc.
Trăng sáng nhờ, sương bắt đầu xuống đặc. Nhìn lên chị Hằng chợt nhớ những đêm quê hương ngồi ngắm trăng hóng mát, tìm chú cuội trên gốc cây đa. Quê hương ơi, liệu có còn ngày nào được ngắm nhìn mây trôi lững lờ chấp chới ánh lân tinh kia không nhỉ. Có tiếng pháo từ phía nam vọng lại, giá như đừng có chiến tranh, chúng tôi xẽ nằm phơi trên con lộ kia cho đỡ nhớ.
Bỗng một loạt tiếng nổ xé toang màn đêm mộng mơ ấy. Ðạn lửa bay đan chéo vào khoảng không với mớ âm thanh chết chóc. Anh Tẩm bảo hình như phía ấy là thằng K9 đánh vào điểm chốt nào đó. Nếu vậy thì chúng tôi không phải là đơn độc, đồng đội vẫn ở ngay bên cạnh sẵn sàng chia lửa cùng chúng tôi.
Tiếng súng vẫn nổ không ngớt, tôi đứng lên quan sát thì hàng loạt tiếng nổ chói tai, lửa toé loe ngay đoạn đường vòng vào chốt B1. Cơ hồ như hàng trăm khẩu súng cùng bắn một lúc, tất cả như chiếc cối xay đạn túa vào hai bên đường làm rung chuyển cả căn hầm.
Những bóng đen ầm ầm chạy ra, vừa đi vừa bắn, tiếng xích xe nghiến trên mặt đường, tiếng động cơ gầm rú, tiếng đạn nổ hỗn loạn, đạn bay hoa cả mắt.
Xe tăng rồi! Tôi nhằm vào những khối đen lừng lững ấy mà nẩy cò. Anh Mão bảo:
 - Khéo bắn phải thằng B1 phía trước! B40 đâu? bắn nhanh không nó chạy hết!
Một luồng lửa phụt về phía tôi, tiếng nổ tức ngực, khói cay xè. Ðịch phản pháo chắc, tôi và anh Mão chúi xuống hầm.
Trên đường, một khối lửa bùng lên bao chùm cả chiếc xe. Cháy rồi! B1 đánh tốt lắm! Bắn đi!
Lửa cháy dữ dội, những chiếc xe phía sau chạy chen lên, đạn B40, B41 chớp lửa, AK quây lấy những con voi sắt ấy. Lại thêm một xe nữa bùng cháy trước điểm chốt trung đội 2, chiếc thứ ba hoảng loạn húc đầu vào tà luy đường ngay dưới chân trung đội 3, lũ nguỵ lúc nhúc chui ra khỏi xe nhảy xuống đường.
Tôi nhằm vào những chiếc áo vằn vện ấy bóp cò, anh Mão bảo: Thằng trung đội 2 ở đấy! Khéo bắn phải nó!
Ðạn trong xe nổ dữ dội, lửa cháy sáng rực soi rõ những xác chết nằm lăn lóc trên đường. Chiếc xe trước mặt tôi ăn trọn quả B41 vào ngang sườn hất văng khẩu 12ly7 nằm chỏng lỏn trên đường. Tên xạ thủ bị quăng xuống sau chiếc xe đang dãy dụa kêu khóc, tôi đưa nó vào đầu ruồi nhưng rồi lại không bóp cò nữa. Cứ để cho nó thấm thía đời lính đánh thuê nhục nhã của mình, để rồi ai xẽ đến cứu hắn!
Anh Tẩm báo cáo vắn tắt trận đánh chặn đoàn xe tăng địch, tiêu diệt hai xe thiết giáp, chiếc thứ ba vẫn nổ máy xình xình. Tiểu đoàn ra lệnh: C7 tổ chức bắt sống xe tăng!
Tôi chột dạ: Bắt sống để làm gì! Ai biết lái mà bắt sống! Ðịch thì vẫn còn rất nhiều hai bên đường. Nếu ra mặt đường bây giờ chắc chắn quân ta xẽ thương vong.
Anh Tẩm và anh Mão bò xuống ven bãi lầy lấy tay làm loa ra lệnh cho B2 bắt sống xe tăng. Thương binh hay tử sỹ rồi cũng đến tay mình cả, chỉ vì thành tích hão mà đưa bộ đội vào chỗ chết như vậy, tôi cáu tiết bảo Ngân liên lạc đại đội:
- Mày chạy ngay ra bảo anh Tẩm: lệnh tiểu đoàn cho tiêu diệt chiếc xe tăng ấy đi, không bắt sống nữa!
Cậu liên lạc sách súng chạy lúp xúp trên bãi gianh, tôi nghĩ bụng: Dù trái lệnh chăng nữa để đảm bảo cho bộ đội không thương vong là được.
�Tôi chưa kịp định thần thì nghe bên kia bãi lầy gọi sang cấp cứu thương binh. Ðấy! Nói có sai đâu cơ chứ! Tức thật!
Tôi sách súng cầm túi cứu thương bò ra ven bãi lầy, anh Tẩm đang ra lệnh cho B2 tiêu diệt chiếc xe tăng ấy. Nhìn sang bên kia đường, qua ánh lửa thấy Phán cùng hai chiến sỹ nữa vác B41đang lom khom quỳ bắn. Lại một luồng lửa xanh biếc phụt ra, cùng như kèm theo tiếng nổ là cột lửa bao trùm lên chiếc xe ấy.
Ngoài đường ba chiếc xe cháy mỗi lúc một to, đạn 12ly7 nổ từng tràng dài trong thùng xe, thỉnh thoảng một quả đạn pháo hoặc DKZ nổ cuốn theo lửa và cột khói cuồn cuộn. Cả một khúc đường sáng rực như trên sân khấu, tàn lửa bay tứ tung.
Vượt qua bãi lầy sang chốt B2, thấy bộ đội đứng lố nhố ven đường, tôi hỏi:
-Thương binh ở đâu!?
- ngoài đường ấy!
-Ai bị thương?Tại sao lại bị ngoài ấy?
_Anh Lý trung đội trưởng tổ chức ra bắt sống xe tăng thì bị địch bắn!( Lý Quê Thanh Ba-PT)
-Thế thì anh nào cùng tôi ra lấy thương binh!
Tôi sách súng, đeo túi cứu thương cùng Bích và Phán leo lên mặt đường. Con đường 21 ban đêm thấy nó rộng như đại lộ, ba chiếc xe thiết giáp cháy dữ dội, lửa rừng rực soi rõ như ban ngày. Không thể bỏ thương binh ở lại trên đường một mình được, nhưng chạy trên mặt lộ trống trải như thế này trong khi địch còn đầy hai bên đường thì cầm chắc tám phần chết, hai phần sống. Chúng tôi dễ dàng trở thành mục tiêu sống cho lũ nguỵ đang mai phục ở ven đường. Sống hay mái cũng không được bỏ thương binh.Tôi tự nhẩm trong bụng: Ðịch đang nhằm bắn mình! Chuẩn bị tắc bùm này! Tắc bùm này!
Lý nằm sóng soài trên mặt đường cách chiếc xe định bắt sống khoảng 3 mét. Trong xe, đạn đại liên và DKZ nổ từng chập tung tàn lửa cuồn cuộn bốc lên, nóng rát mặt. Giá như nó không có cái vỏ bọc thép bao xung quanh thì chắc chắn không có ai dám lại gần. Lý lật ngang rồi lật trái, hai tay định chống người lên nhưng rồi lại quỵ xuống, thở hổn hển. Tôi bảo: Nhanh lên! ôm lấy ngang người Lý, Bích và Phán ôm phần đùi và chân, chúng tôi chạy quay trở lại. Lý to béo và khá nặng, tôi liên tục xốc lên, áp sát Lý vào ngang sườn. Mỗi lần như vậy,� máu từ vết thương của Lý lại trào ra, chảy dọc theo bên đùi, xuống ống chân tôi nóng hôi hổi.
Nhảy xuống mép đường, không thấy địch bắn, thế là thoát chết. Ôm lý chạy về hầm, tôi bước qua một thân hình quần áo rằn ri nằm ngang đường, tôi hỏi:
-         Sao thằng nguỵ này lại nằm ở đây?
-         Một chiến sỹ trung đội 2 nói gấp gáp:
-Thằng này từ trên xe cháy hoảng loạn nhảy đại xuống, thấy bộ đội ta áp sát mé đường, nó tưởng là lính dù mới hỏi: Chạy đi đâu bây giờ! Thế là tôi bảo: Giơ tay lên!
Ðặt Lý nằm dựa vào vách hầm, tôi đứng dậy. Chết thật, bắt tù binh mà không ai trói buộc gì cả, nó quăng cho quả US thì sao! Cùng như một lúc, tên nguỵ thấy chúng tôi túm vào với thương binh thừa cơ bỏ chạy. Vớ khẩu AK trên hầm, tôi lia theo cái bóng đen loang lổ ấy. Chỉ thấy hắn hự lên rồi cắm đầu xuống bãi lầy. Lần đầu tiên tôi trực tiếp giết người như vậy mà không hề run tay!
Quay lại với thương binh, viên đạn bắn xuyên qua mạn sườn đút lọt ngón thay cái, Lý luôn mồm kêu: Khó thở quá! Khó thở quá!
Tôi băng vết thương lại thì thấy sức Lý cứ đuối dần. Khoảng 15 phút sau trung đội trưởng Lý tắt thở vào tang tảng sáng ngày 30 tháng 03 năm 1975. Tôi buồn bã vượt qua bãi lầy về báo tin cho đại đội biết.
Lý sinh ra ở một miền quê nghèo giáp thị xã Phú Thọ, đã có vợ và một con. Hồi trong hậu cứ Kà Leng Lý kể: Vợ mình năm ấy thế chó nào lại đẻ vào giữa vụ gặt, các ông còn lạ gì cái cảnh gặt hái của hợp tác nữa, tất cả đổ xô ra đồng. Không còn ai để nhờ khiêng ra bệnh viện, nhìn chiếc xe cải tiến chở lúa, tôi nghĩ ngay ra: Ðược rồi! Mẹ nó cứ ngồi lên đây! Tôi chùm cho chiếc chăn và cứ thế kéo đến bệnh viện!
Hôm nay Lý đã hy sinh, để lại người vợ goá và đứa con nhỏ nhoi sinh ra vào mùa gặt. Cho đến hôm nay, cho dù là người cùng quê với Lý, đã bao nhiêu lần nhắn tìm rồi mà vẫn chưa gặp được cái gia đình liệt sỹ ấy.
Ðêm lạnh lẽo, trăng sáng đục có lẽ cũng xắp sáng. Ngoài đường những chiếc xe chỉ còn lại vài đốm lửa lập loè. Sương xuống đặc quánh, trời se lạnh, không gian lặng im tưởng chừng như nghe thấy tiếng côn trùng rỉ rả, đưa ma.
Mờ sáng, tiếng súng thưa dần, bắt đầu thấy đói cồn cào, không còn cái gì để ăn tạm, nghĩ đến bánh lương khô mà nước bọt cứ tứa ra.
Bỗng ngang dông đồi chúng tôi có tiếng gì như hàng trăm bước chân đang rê trên mặt cỏ, rất gần. Anh Tẩm quát: Ai! Rồi nâng AK, một loạt đạn bắn về phía ấy. Có tiếng lao sao gấp gáp, tiếng súng vội vàng va vào nhau, địch rồi! Tôi và anh Mão cùng ném hai quả US vào phía ngang đồi. Tiếng rào rào té ngược lên đỉnh dốc. Ðịch rồi! B1 đâu! Cho bộ đội đánh vận động chặn địch!
Tiếng phóng lựu của ta bắn lên dông đồi, AK bắn từng loạt, không thấy địch bắn trả, chỉ thấy tiếng rầm rầm như hàng đàn thú chạy ngược dốc. Anh Mão gọi C8 cho cối 82 bắn ngay lên dông đồi mà chúng tôi đang chốt. Khẩu cối bảo: Sương xuống quá dầy, đêm tối không lấy được xạ giới! Chúng tôi yêu cầu Cối 82 cứ bắn, bên này bộ binh chỉnh tầm và hướng. Có lẽ sợ lộ trận địa, địch xẽ phản pháo cho nên khẩu đội cối của tiểu đoàn cứ làm ngơ, không bắn quả nào cả.
Sáng, sương đặc quánh, cách ba mét thôi mà nhìn không rõ mặt người, anh Mão chạy về bảo:
-Tao với mày lên đồi tìm hộp đi! Thằng B1 lấy được nhiều ba lô lắm!
Nghe đến hộp, tôi sáng mắt cùng anh lò dò lên đồi. Cách hầm chúng tôi khoảng 4 mét, rừng gianh như có ai dùng gậy cán dẹp thành con lộ chạy ngược lên đồi, hai thằng nguỵ chết nằm tơ hơ trên mặt đất, một thằng ăn trọn quả M72 vào mặt, sương hàm toắc ra, những vệt máu tươi còn lê trên vạt cỏ. Rõ ràng phải có hàng tiểu đoàn địch chạy qua đây mới làm cho cả rừng gianh nát bươm như vậy.
Tôi nhìn thấy có mấy chiếc ba lô nguỵ nằm lăn lóc trên vạt cỏ gianh, hướng địch chạy xuống bãi lầy. Anh Mão hai tay hai ba lô, tôi thấy có một chiếc gần bãi lầy vội chạy xuống, khoắc lên vai.
-Ði ra! Giơ tay lên!
Có tiếng miền bắc của ai đó trong màn sương vọng ra, gần lắm, tôi bảo:
-         Ai đấy! C7 trên này đấy!
Cái tiếng ấy vẫn lạnh lùng:
-         Có đầu hàng không? Bắn đi!
Tôi gào lên:
-         C7 đấy! Ðừng có bắn!
Anh Mão cũng gào lên: C7 trên này đấy! Ðừng có bắn!
Một loạt AK hướng về phía tôi. Chết cha rồi, ông kễnh nào mắt nhắm mắt mở thấy tôi khoắc ba lô nguỵ nên tưởng nhầm chăng! Tôi không còn hồn vía nào nữa, quăng ba lô xuống đất bò bốn chân lên đồi, mồm không ngớt kêu: Ðừng có bắn! C7 đấy!
Vẫn cái tiếng lạnh lùng ấy tan trong màn sương: Chết rồi! Ông lại xem đi!
Hoá ra hai ông anh nuôi của C8 đem cơm cho trận địa cối. Họ đi ngang qua và phát hiện thấy hai tên lính dù chui rúc ven bãi lầy. Tên lính dù thì ở giữa, tôi ở trên sườn đồi cho nên mới có đoạn đối thoại toát mồ hôi trên.
Chúng tôi kéo ba lô về hầm, lấy gạo xấy và thịt hộp ra thi nhau xúc. Túi cóc ba lô một tên còn có cả ống cóng thịt lợn kho vẫn còn nóng. Chén đi! Không có thuốc độc đâu mà lo! Bỗng có tiếng miền nam ngay sau lưng: Em đầu hàng các anh ơi! Em xin đầu hàng các anh ơi!
Theo phản xạ chúng tôi nhảy ào xuống hầm, anh Tẩm vớ lấy khẩu súng:
-         Ði ra! Giơ tay lên!
Có bóng đen lệt xệt trong bãi cỏ gianh ngay sau hầm chúng tôi. Anh Tẩm quát:
-Ðứng lên!
-Dạ em bị thương gãy dò!
-Tôi cảnh giới cho! Ông Hậu lên băng cho nó đi!
Tôi cầm súng leo lên hầm, tên nguỵ cởi trần mặt cắt không còn giọt máu, từ trong bụi lê ra. Bên cạnh hắn là một xác chết với đống quần áo loang lổ. Một tiểu đoàn địch đã xắp tràn qua hầm chúng tôi, quá là gần. Nếu địch biết chúng tôi chỉ có một trung đội thì chắc trận đánh giáp lá cà xẽ diễn ra. Hai quả lựu đạn của tôi và anh Mão đã chặn bước đi của địch buộc chúng rẽ ngược lên đỉnh đồi. Phía sau khe suối, địch hoảng loạn tháo chạy vứt súng ống, ba lô chồng lên nhau kể cả đài thông tin 15w.
Tôi thu ba lô và súng địch, có một chuỗi hạt cườm, một túi vải thêu loang lổ của người theo công giáo. Bên trong túi có tờ giấy với dòng chữ viết vội mấy câu thần chú �úm ba la� gì đó. Phía sau còn chú thích: Nếu gặp tai hoạ cứ đọc mấy câu thần chú này thì tai qua, nạn khỏi! Tên tù binh này liệu có thoát chết hay không khi sinh mạng của nó đang nằm trong tầm tay chúng tôi!
Nắng tràn trên đường, thằng nguỵ với khẩu 12ly7 nằm chỏng gọng lúc sáng còn gọi �má ơi� bây giờ không thấy động cựa gì nữa. Ba chiếc xe bọc thép M113 hôm qua hung hãn là thế� nay chỉ còn một đống sắt vụn đen sì. Những tên tàn binh nhập nhoạng chạy ra đường đã trở thành mục tiêu của các tay bắn tỉa. Xác lính dù nằm lăn lóc rải rác dọc quãng đường hơn ba trăm mét. Nhìn tên tù binh run lên lập cập, tôi cho nó chiếc áo dù khoắc tạm và một bi đông nước.
Khoảng 9 giờ sáng ngày 30-03-1975, đại đội 5 được lệnh xuất kích truy đuổi tiểu đoàn 5 dù bỏ chạy đêm hôm qua. Ðỗ Văn Hoan ( Quê Sơn Dương-LâmThao-Phú Thọ) trung đội trưởng dẫn quân dọc đường 21. Ði ngang qua chốt của trung đội 3 một đoạn, gặp chiếc xe DMC đêm hôm trước chúng tôi bắn cháy, trên xe chở đầy thịt hộp thế là bộ đội túm quanh chiếc xe. Cùng lúc ấy có chiếc VO10 bay đến, bắn đạn chỉ điểm, hai máy bay A37 lao đến cắt bom. Ðứng ở trên chốt nhìn từng chiếc máy bay lao xuống, tiếng bom rung chuyển căn hầm, khói đen cuồn cuộn bốc lên. Ðịch đánh dọc đường từ phía chiếc xe cháy đến giữa bãi lầy rồi cút. Nghe đâu đại đội 5 bị hy sinh mấy người, tôi sốt ruột quá, thằng Hoan có việc gì hay không!?
Quá trưa, trung đội của Thanh quê ở (Ðại Phạm - Hạ Hoà - Phú Thọ) tôi có gặp anh năm 1978 đang công tác tại phòng xây dựng huyện Vĩnh Tường-Vĩnh Phúc) bắt được 5 tên tù binh. Một quả bom nổ giữa bãi lầy, hơi bom quét một vùng cỏ và bèo làm hở lưng mấy chú lính dù dưới đầm nước. Do sức ép quả bom quá mạnh cộng thêm đỉa rúc và cái nắng giữa trưa, lũ tàn binh không còn chịu được nữa.Thanh cầm súng đi ngang qua thấy chúng động đậy ven hố bom quát lên một tiếng, cả năm thằng vội vã đứng dậy xin hàng.
Khoảng hơn 13 giờ chiều, thấy đoàn cáng thương của C5 đi ngang qua chốt, tôi hỏi:
-         Này các ông ơi! Thằng Hoan trung đội trưởng có việc gì không?
-         Hoan chết rồi! Vừa mới khiêng về bên bãi lầy kia kìa!
Tôi chạy dọc đường 21 sang bên kia bãi lầy, ở đấy người ta đang đào 4 cái huyệt ngay cạnh điểm chốt của B2. Ðại đội 5� ba liệt sỹ, đại đội 7 một người là Lý.
Hoan nằm trên cáng, khói ám đen khuôn mặt thông minh và đẹp trai ấy.Trên ngực Hoan, những mảnh đạn găm thủng lỗ chỗ, vạt áo bị cháy nham nhở, một vài con kiến vẫn còn bu trên miệng các vết thương. Tôi chua sót lấy khăn lau mặt cho Hoan, trước khi vào chiến dịch, chúng tôi còn chúc rượu và vui với nhau trong hậu cứ. Còn hôm nay�
Nghe nói trung đội của Hoan đi đến đoạn chiếc xe cháy thì bị bom đánh vào đội hình. Nghe bom rít trên đầu, Hoan cùng mấy chiến sỹ lao xuống ven đường cạnh một trận địa pháo của địch không ngờ dính quả mìn dâu tôm. Ba người hy sinh, một bị thương.
�Tôi không còn đủ can đảm để nhìn những tảng đất phủ lên thân hình thằng bạn của mình. Quay ra, đi xuôi về nơi Hoan chết, ở đấy chiếc xe DMC đã cháy thành than, những thùng thịt hộp cháy nổ văng ra xung quanh. Trên thùng xe, có mấy xác lính nguỵ chết đen thui chỉ còn phơi bộ xương sườn cong vênh, vừa khét, vừa khẳn.
Bên kia đường, có hai khẩu pháo 105 ly với nước sơn xanh biếc ngồi chồm hỗm cạnh đường. Có lẽ thấy lũ thiết giáp bị chặn đánh tơi tả, lính pháo binh hoảng sợ bỏ pháo tháo chạy. Bên ngoài trận địa pháo, một sợi thép gai căng ngang, ở đó có một mảnh bìa các tông vẽ cái đầu lâu với hai cẳng sương ống và hàng chữ :CO MIN!
�Hoan chết ở đây.
Tôi buồn nản quay về, đi ngang qua chiếc xe bọc thép thấy Thanh và hai chiến sỹ nữa đang lấy cung năm thằng tù binh dù, có một tên điếc đặc vì sức ép, lửa bom cháy quăn bên mặt. Thấy tôi, Thanh hỏi nhỏ: Lũ tù binh này thì nên làm thế nào? Nghĩ đến Hoan và các liệt sỹ của ta, tôi càng cáu tiết: Cho thịt mẹ chúng nó đi!
Trở về hầm, anh Tẩm đi kiểm tra các điểm chốt, nhìn thằng tù binh nguỵ, máu trong người như muốn sôi lên. Tên nguỵ lúc này đã đến đường cùng nên gương mặt của nó như vừa hối tội lại vừa van xin. Nhiều khi định cho nó một băng đạn nhưng lại thấy tồi tội.
Cùng thời gian này, lực lượng vũ trang quân khu Năm và quân đoàn 2 đã giải phóng hoàn toàn các tỉnh duyên hải miền trung từ Quảng Trị, Phú Yên, Quảng Nam, Quảng Ngãi và đang ào ạt tiến vào thành phố Ðà Nẵng.
Phía chúng tôi đánh chiếm đèo Phượng Hoàng, sử dụng một lực lượng lớn của sư đoàn với chiến thật luồn sâu, chia cắt, tiến công và chốt chặn không cho địch ứng cứu lẫn nhau. Những mũi luồn sâu áp sát đội hình làm vô hiệu hoá hoả lực và các trận địa pháo của địch làm cho chúng hoang mang dao động. Chúng tôi đã giáp trận rất nhiều với quân cộng hoà, bảo an, biệt động� Hôm nay đối mặt với lính dù nguỵ rõ ràng lực lượng này lỳ lợm và thiện chiến hơn rất nhiều. Trên một� con đèo dài 15 km với địa hình hiểm trở địch đã chiếm ưu thế về địa hình và hoả lực, ta không có cách đánh hợp lý thì tổn thất là không tránh khỏi. Chúng tôi đã nhịn đói, luồn sâu, biết bao nhiêu hy sinh vất vả để bao vây chia cắt địch theo đúng ý đồ của bộ chỉ huy chiến dịch. Dàn địch mỏng ra để tiêu diệt, khúc đầu, đuôi và khúc giữa cùng oằn lưng mà ăn đòn. Nghĩ lại mới thấy bộ đội ta thông minh mà anh hùng thật.
Chiều 30 tháng 03, không gian như tĩnh lặng, phía đông, tiếng bom và pháo vẫn vọng về, có lẽ các đơn vị bạn đang tiến công và truy kích địch hướng chân đèo. Nắng bắt đầu gắt, mùi hôi hôi, ngai ngái của xác chết, mùi khét của khói đạn xen trong gió ngàn thỉnh thoảng lại đưa lên hầm. Sau khi cho tên tù binh uống nước, anh Tẩm bảo: Thằng lính nguỵ này làm thế nào? Tha hay giết đi! Anh Mão ngửa cổ tu nước trong chiếc bi đông nguỵ chép miệng: Thôi, thả mẹ nó ra, giết làm gì cho bẩn tay! Nó đi đâu, sống hay chết mặc xác nó!
Gọi tên tù binh ấy lại, hắn lập cập lê đến bên hầm, thịt ở hai bên má run lên, anh Tẩm bảo:
-         Bây giờ thì tha chết cho mày! Ði xuống cái bản kia kìa, ở đó có ban quân quản người ta đón, nghe chưa!
-         Tên tù binh dạ ran rồi vội vàng cất tờ giấy phóng thích viết tay như cầm tờ hộ mệnh. Nhìn nó lê đít trên sườn đồi, chúng tôi quay về với bữa cơm chiều. Anh nuôi không phải đưa cơm nữa, chúng tôi mở gạo xấy và thịt hộp ra.
-         Sáng hôm qua tôi cứ tưởng nó bắn ông, mẹ! chạy bán sống bán chết!
-         Tôi thấy ông nằm bò ra vạt gianh, ướt hết cả áo, thôi cũng sợ đi!
-         Trong ba lô có thằng còn đem theo con gà trống, tụi này ăn cắp gà ở đâu không biết, tôi định mang về thịt nhưng thằng B2 xin mất rồi!
-         Khe đồi phía trên kia cơ man nào là ba lô và súng đạn, giá như thằng cối 82 nghe mình tương lên dông đồi thì bọn dù này ăn đủ!
Chúng tôi vừa ăn vừa nói chuyện vui vẻ, hình như chiến tranh đang ở đâu xa lắm rồi. Bất chợt tôi nhìn xuống đường, Thanh đang quỳ xuống ngắm bắn, trước mặt là tên nguỵ mà chúng tôi phóng thích đang lê trên mặt nhựa. Tôi nhận ngay ra và kêu lên: - Ông Thanh!
Chưa dứt câu thì hàng loạt điểm xạ đã nổ, tên tù binh lăn còng keo ra đường, anh Tẩm bảo: Người ta đã phóng thích, ông còn bắn nó làm cái gì!? Thanh cắp súng quay đi: Tôi không tha thằng lính dù nào cả! Cú chúng nó lắm rồi!
Có lẽ Thanh thoát chết trong trận pháo ngày 23 tháng 03 dưới chân đèo. Bao nhiêu đồng đội của mình đã vĩnh viễn không bao giờ trở lại vì tụi nguỵ này nên anh rất căm tức lữ dù này. Thấy thế tôi chạy xuống đường và bảo:
-Lúc nãy anh bắn nó đã chết chưa?
-Chết rồi! Khoảng cách không đầy 20 mét ấy mà!
Một đêm trôi qua thật bình lặng, tiếng súng vẫn ì ầm phía đông, hầu như chiến tranh đã lùi qua đây rồi thì phải. Chúng tôi khoan khoái ngắm ánh trăng mên mang chảy tràn trên đồi cỏ, lại mở hộp ăn với nhau.
Khoảng nửa đêm, chúng tôi nhận lệnh hộ tống một đoàn xe K63 của ta chạy về phía đông. Ðể một trung đội ở lại chốt đường, chúng tôi chia nhau vào các xe thiết giáp. Tôi bâng khuâng nhìn sang hai bên đường, núi đồi nhấp nhô huyền ảo trong màn sương khuya mai mảnh. Gió lọt qua khe cửa đem theo mùi xăng đến nôn nao. Qua khỏi chiếc xe GMC bị cháy một đoạn, chúng tôi dựng lá chắn thùng xe lên đề phòng địch phục kích. Tôi chột dạ: Biết đâu hôm nay địch cũng chờ chúng tôi ở đâu đó, một quả ÐK thôi là tất cả chìm trong cái quan tài sắt này!
Ði khoảng 6 km thì bàn giao cung đường cho đơn vị khác hộ tống tiếp, chúng tôi hành quân bộ quay trở về điểm chốt. Bắt đầu thấm mệt và buồn ngủ.
Sáng 31 tháng 03. Nắng chảy tràn trên dông đồi, gần một tháng liên tục hành quân không tắm gội gì cả, tôi và anh Tẩm đem quần áo ra con suối sau bản tắm giặt.
Ði xuống đường, những xác chết hôm qua bị kéo sang hai bên lấy đường cho xe ta chạy, để lại những vũng máu đen như hắc ín. Những tấm lưng trần bị nắng hun đúc lợt da nhầy nhụa. Có xác chết nằm co quắp thân thể cháy đen thui. Tôi thở dài: Chiến tranh là thế đấy!
Tôi cố tìm xác tên nguỵ hôm qua phóng thích xem bị bắn như thế nào. Lật tìm mãi mà không thấy đâu cả, quái lạ, chả lẽ nó vẫn thoát chết!
Vào trong bản, cái làng dân tộc mà hôm nào chúng tôi vượt đường thấy mái tôn sáng lấp loá. Dân có lẽ đã chạy hết vào rừng chỉ nhìn thấy bóng vài người đàn ông đóng khố ngồi trên sàn nhà. Vài chú gà choai đuổi nhau với đàn lợn hí hoáy dũi ven hè. Ðến nhà Rông, tôi giật mình nhận ra thằng tù binh đã phóng thích ngồi lù lù trên xạp gác. Hai đùi hắn đã được thay lớp băng mới trắng xoá, bên cạnh hắn là mấy thằng tù binh bị trói tay khoặc ra phía sau. Nhìn thấy chúng tôi, nó hoảng sợ lấy tay che mặt, tôi bảo anh Tẩm:
-Thằng này số của nó cao thật! Vua Diêm Vương đã sờ đến cổ rồi mà vẫn còn chưa chết!
Con suối mát lạnh trong veo nước chảy lững lờ, hai bên bên bờ hàng lau xậy xanh um ào ào khi một luồng gió núi thổi qua. Lâu lắm rồi, hôm nay chúng tôi mới lại được tắm trên con suối yên hoà như thế này. Lại lặn, lại ngụp và té nước vào nhau cười khúc khắc. Hầu như chiến tranh đã lùi thật xa cho cái chết không còn khắc khoải nữa. Tôi lại thấy yêu đời, yêu cuộc sống tệ. Nhìn lên vòm trời xanh cao vời vợi, bất chợt tôi thèm khát một chiều quê hương, một gương mặt ngỡ ngàng của người con gái thơ buồn nào
------------------------------
Tháng 02 -2004
Hoàng Kim Hậu
-------------------------