Chiến trường Tây Nguyên
Sau hơn một tháng hành quân vượt qua hàng trăm ngọn đèo, con suối, cung đường, trọng điểm ác liệt, chúng tôi đã đặt chân đến bắc Kon Tum vào ngày 22 tháng 1 năm 1969. Đây là vùng ngã ba biên giới Việt Nam - Lào – Camphuchia. Tây Nguyên là đây, mặt trận B3 ác liệt nổi tiếng từ lâu. Trên mái nhà của Đông Dương này đang hiện diện những sư đoàn chủ lực khét tiếng của địch cũng như những đơn vị thiện chiến của ta trong thế trận cài răng lược bấy lâu nay. Sau lưng tôi, hậu phương xa lắc xa lơ, nhìn qua bầu trời cao nguyên vời vợi và những cánh rừng mịt mùng thăm thẳm, tôi linh cảm về những năm tháng cực kì gian truân, và ác liệt sắp tới.
Đây là vùng đất cao nguyên nổi tiếng mà ngay từ thời cắp sách tới trường chúng tôi đã được học, được biết phần nào. Ngoài những bài học về địa hình, thổ nhưỡng, khí hậu, dân cư, vùng đất này còn được chúng tôi biết đến qua câu chuyện kể về vua Lửa, vua Nước, và những bài giảng về chàng Đam San- một tù trưởng anh hùng trong bộ sử thi nổi tiếng của dân tộc Ê Đê (Tây Nguyên) với những chiến công lẫy lừng, những điệu múa cồng chiêng, Kà Tu sôi nổi. Câu chuyện về Anh hùng Núp và đội du kích Xi-tơ trong tiểu thuyết Đất nước đứng lên của nhà văn Nguyên Ngọc đã trở thành những biểu tượng của người con Tây nguyên bất khuất, Trường ca chim Chơ rao của nhà thơ Thu Bồn. Bài Bóng cây Kơ-nia do Ngọc Anh sưu tầm, nhạc Phan Huỳnh Điểu mang một biểu trưng của núi rừng Tây Nguyên yêu dấu với những hình ảnh về mẹ, về em trong nỗi nhớ anh: “Buổi sáng em làm rẫy thấy bóng cây Kơ-nia, bóng ngả che ngực em về nhớ anh không ngủ. Buổi chiều mẹ lên rẫy, thấy bóng cây Kơ-nia, bóng tròn che lưng mẹ, về nhớ anh mẹ khóc…”. Hay lời bài hát da diết, nhịp nhàng Tháng ba Tây Nguyên- nhạc sĩ Văn Thắng với những lời ca đi vào lòng người sâu sắc: “tháng ba mùa con ong đi lấy mật, mùa con voi xuống sông lấy nước, mùa em đi phát rẫy làm nương, anh vào rừng đặt bẫy cài chông…Tháng ba, rừng Tây nguyên hoa thắm đỏ, làm muôn vạn tiếng chim múa hát, bầy chim muông cất cánh dạo chơi, sông từng đàn con cá lội bơi. Tháng ba, tay em dệt khăn hồng, thêu cánh chim trời cho người em mến…”
Tôi biết Tây Nguyên được mệnh danh là mái nhà Đông Dương, vì thế nó có vị trí chiến lược rất quan trọng không chỉ với Việt Nam mà cả hai nước láng giềng là Lào và Campuchia. Người Mỹ rất hiểu điều ấy nên đã tìm cách chiếm giữ vùng đất cao nguyên trung phần Đông Dương này. Trong suốt cuộc kháng chiến thì Tây Nguyên là mảnh đất diễn ra nhiều trận đấu ác liệt giữa ta và địch. Tây Nguyên đối với tôi bây giờ không còn là những bài học phổ thông trìu tượng nữa mà là mặt trận, điểm chốt, chiến hào khét mùi bom đạn. Đến Tây nguyên, tôi không còn thời gian để ngồi nghĩ và tận hưởng vẻ đẹp của miền đất lạ. Những bài học tôi lĩnh hội được ở đây là bài học từ ranh giới giữa sự sống- cái chết trong những năm tháng khốc liệt, đói khát và bệnh tật. Những gì là gian khó nhất thì mảnh đất này hứng chịu tất cả. Đó cũng là bài học sinh động cụ thể về lòng yêu nước, sự hi sinh cao cả của bộ đội và nhân dân Tây Nguyên.
Sau một thời gian ngắn làm lán, trại là chúng tôi ổn định nơi ăn chốn ở. Sau đó chúng tôi bước vào giai đoạn học tập chính trị và huấn luyện quân sự. Về quân sự, chúng tôi học chiến thuật vận động tiến công kết hợp với chiến thuật chốt giữ trận địa, kỹ thuật bắn máy bay đổ bộ…Ngoài những giờ học chính thức, từng tiểu đội tự ôn luyện. Chúng tôi được cán bộ cấp trên hướng dẫn nhiều về kỹ thuật và công tác chuẩn bị chiến đấu phù hợp với các trận đánh khác nhau.
Về chính trị, chúng tôi được giới thiệu về chiến tranh nhân dân ở Tây Nguyên, công tác dân vận, tình hình và nhiệm vụ mới…Tôi còn nhớ câu chuyện mà khi học chính trị, phái viên mặt trận B3 đưa ra đề nghị giải quyết. Câu chuyện này, nói đúng ra là một tình huống do đồng chí đó đưa ra để chúng tôi thảo luận. Chuyện kể như sau: “Một đồng chí bộ đội của ta đang chiến đấu thì bị mất liên lạc với đơn vị. Đã năm ngày luồn rừng đi tìm đơn vị nhưng chẳng gặp. Đồng chí ta phải ăn lá rừng, uống nước suối để sống. Ở nơi rừng xanh, chỉ có mặt trời mọc là khiến cho đồng chí còn xác định được phương hướng và tìm những vết tích từ những cuộc hành quân để xác định đường đi. Ban ngày luồn rừng tìm đơn vị, ban đêm phải ngủ trên cây đề phòng thú giữ. Không có một thứ gì bên người để ăn. Giữa lúc bụng đói cồn cào, tay chân rời rã, người cứ luội đi thì gặp một cái rẫy của đồng bào. Mắt anh sáng lên khi thấy dưa hấu nằm lăn lóc trên đất, mấy khóm mía lá khua loạt xoạt trong gió và cả một vạt sắn xanh tốt quá đầu người. Anh biết rằng nơi đây đã có bàn tay của con người và chắc chắn không xa nữa, anh sẽ tìm thấy đồng đội và tìm được đơn vị của mình. Anh nghĩ trời thương mình rồi và bò tới bên một quả dưa hấu rất to. Nhìn quả dưa căng mọng nước, nước miếng anh tứa ra. Quả dưa hấu chỉ cần vặt đứt cuống, không có dao để bổ thì chỉ cần đập vào cạnh của hòn đá hoặc thân cây, tức khắc quả dưa sẽ bị vỡ ra, lõi dưa đỏ au và tha hồ ăn cho đã. Tay anh đã đụng vào quả dưa hấu, nhưng bỗng nhớ lại mười hai điều kỉ luật quân đội, có câu đầu tiên là: “không được đụng đến cái kim sợi chỉ của nhân dân”. Hai tình huống đặt ra: Một là, ăn dưa thì sẽ sống nhưng bị vi phạm kỉ luật. Hai là, chấp hành nghiêm kỉ luật quân đội, không ăn dưa thì chắc chắn sẽ chết đói. Kể đến đó, phái viên mặt trận đặt câu hỏi: “Theo các đồng chí, trong trường hợp này phải xử lý ra sao?”.
Cả đơn vị thảo luận sôi nổi. Có người cho nêu lên nguyên tắc kỷ luật quân đội và khẳng định, nếu ăn dưa là vi phạm kỷ luật quân đội. Quan điểm của số người này cho rằng, thà chết chứ không thể lấy trộm dưa để ăn. Có đồng chí còn dẫn ra câu thành ngữ “đói cho sạch, rách cho thơm”, dù chết đói còn hơn làm hoen ố danh dự anh bộ đội Cụ Hồ. Dù mình chết đói nhưng việc làm đó không những thực hiện nghiêm kỷ luật quân đội mà còn tạo uy tín trong nhân dân. Hơn nữa đây là địa bàn Tây Nguyên, đồng bào các dân tộc ở đây suốt đời theo Cách mạng nên bộ đội không được xâm phạm của cải của nhân dân. Có như vậy nhân dân mới ủng hộ bộ đội…
Đồng chí khác thì hăng hái lập luận: đôi khi việc học phải được vận dụng đúng thực tế thì mọi cái mới giải quyết được, ta không nên máy móc. Con người là vốn quý. Một quả dưa không thể đem so sánh với tính mạng của một con người mà, đây lại là sinh mạng một chiến sĩ quân đội, rất cần thiết cho mặt trận lúc bấy giờ. Y kiến này cho rằng: người chiến sĩ nhờ có dưa mà sống được, sau đó trở về với đơn vị và lập được thành tích trong cuộc chiến đấu, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, cứu được nhiều đồng đội và bảo vệ được nhân dân. Thế thì ăn dưa là có lợi chứ!
Khi thảo luận, hai quan điểm này đấu tranh quyết liệt và khó phân thắng bại. “Phe ăn” và “phe không ăn” cứ đưa ra nhiều triết lý và tranh cãi quyết liệt. Lập luận của mỗi “phe” xem chừng cũng có lý. Cuối cùng thì chẳng ai chịu ai. Phái viên mặt trận cũng không hề kết luận ai sai, ai đúng mà chỉ nói: “Các đồng chí tiếp tục suy nghĩ và tự rút ra cho mình bài học cần thiết”.
Qua câu chuyện này chúng tôi rút ra nhận xét: vừa vào chiến trường đã thảo luận vấn đề này thì chắc chắn sắp tới chiến trường Tây Nguyên không chỉ rất ác liệt mà cũng rất khó khăn, thiếu thốn. Và quả thực đúng thế, qua 6 năm lăn lộn, sống chết với chiến trường Tây Nguyên, tôi và đồng đội càng thấm thía sự gian nan, khốc liệt của mặt trận B3 này.
Chúng tôi tổ chức ăn cái tết Nguyên đán đầu tiên ở Tây Nguyên. Trong bữa cơm đầu năm có đoàn văn công mặt trận B3 đến biểu diễn. Các ca sĩ như Thanh Lịch hát nhiêu bài rất hay về Tây Nguyên: Cô gái Ba Cô, tiếng chày trên Sóc Bom Bo, Tháng ba Tây Nguyên, Bóng cây Cơ Nia…Trong đó tiết mục “Tiếng chầy trên Sóc Bom Bo” của Xuân Hồng gây xúc động người lính chúng tôi:
Lửa bập bùng.
Tiếng chày khuya cắc cum cụp cum.
Cum cup cum, cum cụp cum, cắc cum cụp cum.
Đuốc lồ ô bập bùng lên ánh lửa.
Sóc Bom Bo rộn rã tiếng chày khuya.
Bồng con ra võng để đòng đưa.
Gíã gạo ban đêm vì ngày bận làm mùa…
Bài hát có giai điệu mượt mà và ca từ cũng thắm thiết tình quân dân. Càng nghe bài hát càng thấy người dân ở đâu cũng chăm lo cho bộ đội ăn no để đánh thắng. Nghe bài hát này trên đất Tây Nguyên càng có ý nghĩa về tình đoàn kết quân dân. Đặc biệt, bài thơ chúc tết Xuân Kỷ Dậu- 1969 của Bác Hồ được phổ nhạc do các nghệ sĩ trình bày thật tuyệt vời:
Năm qua thắng lợi vẻ vang.
Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to.
Vì độc lập, vì tự do.
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào.
Tiến lên chiến sĩ đồng bào.
Bắc Nam sum họp, xuân nào vui hơn.
Sau khi ăn tết, thực hiện mệnh lệnh của Bộ chỉ huy mặt trận, đơn vị tôi, tiểu đoàn 1 thuộc trung đoàn 28 lên đường đi chiến dịch mùa xuân năm 1969. Trong lòng những người lính trận chúng tôi còn ngân vang lời bài thơ chúc Tết của Bác Hồ đọc đêm giao thừa: “ Năm qua thắng lợi vẻ vang…”
Niềm tin chiến thắng của lãnh tụ truyền vào chúng tôi, và ai cũng nao nức nghĩ tới một mùa Xuân thống nhất Bắc Nam đang tới gần. Những nụ cười rạng rỡ trên nét mặt của người dân chào đón chúng tôi. Dân tộc không còn phải chịu cảnh bom đạn nữa, đất nước được hòa bình. Cảm giác đó thật hân hoan và hạnh phúc, không còn gì cao cả và vĩ đại hơn. Chúng tôi háo hức ra trận để lập công lớn ngay từ trận đấu.
Ngày ấy, chiến trường Công Tum hình thành ba khu vực: khu vực cánh Bắc, khu vực cánh Trung và khu vực cánh Nam . Mỗi nơi đều có những thuận lợi về địa hình và cũng có những khó khăn riêng. Chỉ huy quân đội Mỹ sử dụng 5 tiểu đoàn thuộc sư đoàn 4 Mỹ. Vòng ngoài thuộc 3 tiểu đoàn thuộc lữ đoàn 1 đóng ở 3 khu vực. Khu vực thứ nhất gồm có: Ngọc Tô Ba, điểm cao 467, Plây Gia Siêng. Khu vực thứ hai gồm có: Chư Dơ Bang, Chư Mơ Nú, Chư Mo Rinh. Khu vực thứ ba: Chư Kê Pắc, Chư Kô Pắc. Vòng trong gồm hai tiểu đoàn thuộc lữ đoàn 2 cùng với các đơn vị pháo binh yểm trợ chiếm giữ Chư Đô, Kleng, Chư Tăng Kra, Chư Tăng An. Tiểu đoàn 1, trung đoàn 28 chúng tôi được giao nhiệm vụ vây chặt tiểu đoàn 1, trung đoàn 12, lữ đoàn 1, thuộc sư đoàn 4 của Mỹ ở địa bàn Chư Đô, Kon Tum. Quân Mỹ đặt ở đây những cứ điểm lớn với những sư đoàn, quân đoàn. Chúng có các căn cứ không quân khá mạnh với xe tăng, thiết giáp, máy bay yểm trợ. Hệ thống phòng thủ khá kiên cố, chúng rải ra từng đại đội, trung đội xen kẽ nhau đóng chốt trên những điểm cao nhưng bộ đội ta không ngại khó khăn, vẫn tự tin vào trận đánh với khẩu hiệu rắn rỏi:
Đánh cho sư 4 đảo điên
Đánh cho quân Ngụy ở Tây Nguyên tơi bời
Đơn vị tôi khẩn trương dàn thế trận bao vây tiêu diệt địch theo kế hoạch tác chiến. Khẩu đại liên của đại đội 4, tiểu đoàn 1, do tiểu đội trưởng Vương Tử Hoàng chỉ huy bố trí tại đồi Cháy. Nhiệm vụ của khẩu đại liên là bắn máy bay trực thăng đổ bộ và chi viện cho đại đội hai bộ binh.
Đại đội 2 bộ binh được giao nhiệm vụ đánh đại đội C của Mỹ ở Chư Đô. Cũng xin được nói thêm, Chư Đô là ngọn núi cao 1145met, cách Kleng 13 cây số. Qua trinh sát chúng ta biết được đại đội C của địch có 100 tên lính Mỹ ẩn náu trong hệ thống công sự kiên cố, vững chắc gồm ba lô cốt bê tông và 45 chiếc hầm xây có nắp thông với nhau bằng các đường giao thông hào chằng chịt. Lính Mỹ ở Chư Đô còn được trận địa pháo lớn đóng ở Chư tăng-Kra bắn chi viện khi cần thiết và máy bay trực thăng, máy bay C47 quần đảo liên tục trên bầu trời bất kể ngày đêm nhằm bảo vệ vòng ngoài của căn cứ. Đạn pháo lớn của địch nổ ùng oàng bên ngoài căn cứ và đêm đêm sáng đèn dù do máy bay Mỹ thả, soi rõ từng mô đất, khóm cây.
Đêm mùng 4 tháng 3 năm 1969, khẩu đại liên của đại đội chúng tôi được lệnh chiếm lĩnh trận địa chiến đấu và chuẩn bị công sự chốt giữ trên đồi Cháy. Khoảng cách giữa trận địa chúng tôi và đồi Chư Đô nơi địch đóng quân là ba trăm mét- một khoảng cách rất gần và đặt ra nhiều nhiệm vụ quan trọng. Sự nguy hiểm rất cao nên mọi cái đều phải tính toán và thực sự phải cẩn trọng.
Tôi còn nhớ rõ mồn một quang cảnh đồi Cháy lúc bấy giờ, đúng như cái tên của nó, cả quả đồi bị cháy trơ trụi không còn sót lại một bụi cây, khóm cỏ nào. Mặt đồi phủ đầy tro than đen kịt, gặp gió, bụi tro bay lên mù mịt. Những cây to thì cháy nham nhở, cây nhỏ thì cháy xém hết cả, có chỗ còn âm ỉ, mặt đất bỏng rát, bàn chân đặt xuống không chịu nổi…Có lẽ trong chiến đấu, những quả đồi không tên trên bản đồ thì bộ đội đặt cho cái tên là “Đồi không tên”. Còn đồi không tên đó mà bị bom đốt cháy thì gọi là đối Cháy. Chiều hôm trước khi đơn vị chiếm lĩnh trận địa, máy bay giặc tăng cường ném bom na-pan, loại bom có sức hủy diệt ác liệt khiến cho tất cả trên mặt đất hóa thành tro tàn. Nhiều đống lửa bập bùng cháy trên đồi. Mùi bom, đạn nồng nặc khắp nơi lẫn vào mùi cỏ, mùi động vật bị thui oi nồng, ngột ngạt. Khói lửa vẩn cháy lên thành từng chùm, ngập ngụa cả bầu trời, màu đỏ quẩn vào màu khói đen bốc cao, cuốn theo tro bụi bay tứ tung, nhất là vào buổi trưa nắng nóng. Kẻ địch đánh bom na-pan lên đồi cốt để triệt tiêu mọi sự sống, triệt tiêu mọi vật cản mà bộ đội ta có thể dùng nó làm ngụy trang.
Dưới ánh đèn dù hắt sáng từ căn cứ của địch, chúng tôi khẩn trương đào công sự, lặng im làm việc, chỉ nghe rõ hơi thở của nhau. Người nào cũng ướt đẫm mồ hôi, mặt mũi lấm lem như bết bùn. Tiểu đội trưởng Vương Tử Hoàng nhắc nhở mọi người khẩn trương tranh thủ trời chưa sáng để làm công sự. Sau đó tập trung ngụy trang hầm hào cho kín đáo. Rút kinh nghiệm từ cuộc chiến đấu vừa qua, ngụy trang công sự là biện pháp che mắt quân địch để bảo toàn lực lượng. Tuy nhiên, ngụy trang trên đồi Cháy này là một vấn đề rất khó đối với chúng tôi, bởi quả đồi đã bị cháy trơ trụi, không còn lá cây. Nhưng trong cái khó ló cái khôn, chúng tôi lấy tro than phủ trên lớp đất đỏ mới đào và nhặt cành cây cháy che lên trận địa. Với cách ngụy trang như vậy thì máy bay phản lực của địch sẽ rất khó phát hiện, thậm chí bộ binh chúng bước lên trên cũng không thể biết được. Chúng tôi tin như thế.
Đào xong công sự, anh em vừa nhai lương khô, vừa uống nước và nghe anh Hoàng phổ biến nhiệm vụ:
Đêm nay, đại đội 2 sẽ nổ súng tấn công địch ở đồi Chư Đô. Ngày mai, chắc chắn địch sẽ bắn phá ác liệt vào trận địa của chúng ta, không loại trừ tình huống địch đổ bộ vào đây, tiểu đội ta phải chuẩn bị hai phương án đối phó: bắn máy bay và đánh bộ binh địch. Các đồng chí phải chuẩn bị tinh thần chiến đấu thật tốt. Bằng giá nào cũng phải kiên quyết làm tròn nhiệm vụ trên giao. Phải giữ vững trận địa. Bây giờ các đồng chí kiểm tra lại xem nguy trang đã ổn chưa. Nếu chưa đảm bảo thì chuẩn bị tiếp. Các đồng chí phải chuẩn bị mặt nạ phòng độc, bông băng cá nhân và nước uống cũng phải hết sức tiết kiệm… Tất cả đều chuẩn bị chu đáo và trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Tiểu đội trưởng Vương Tử Hoàng đi kiểm tra súng đạn, mặt nạ phòng hóa, túi cấp cứu cá nhân của từng người. Nơi chiến trường, sự cẩn thận, chu đáo của người chỉ huy chẳng bao giờ thừa cả. Sự khốc liệt, nghiệt ngã của chiến tranh đã rèn luyện cho người lính, dù là cán hay binh. Nghĩ một lát, anh Hoàng giao tiếp cho tôi và anh Hoàng Ngọc Loan đào thêm hai chiếc hầm cách trận địa đại liên chừng ba mươi mét và cách địch khoảng hai trăm năm mươi mét. Nhiệm vụ của tôi và anh Loan là cảnh giới, sẵn sàng đánh bộ binh địch từ đồi Chư – Đô tràn sang. Tôi và anh Loan cũng lường trước được tính chất ác liệt của trận đấu nên làm hầm hào rất cẩn thận theo thế chi viện cho nhau. Tôi bảo anh Loan “Anh em mình cùng hỗ trợ đắc lực cho nhau nhé”. Hai anh em làm khẩn trương và mau lẹ, mồ hôi túa ra đầm đìa mà không dám uống nước, phải để dành ngày mai.
Đến nửa đêm chúng tôi hoàn tất mọi việc. Cũng may là đất ở đây là đất bazan nên cũng dễ đào công sự. Tựa lưng vào vách hầm mới đào, mùi đất bazan còn nồng nực, tôi nhìn lên bầu trời. Trời cao nguyên về đêm thanh trong và đầy sao, gió lộng thổi. Trong khoảnh khắc căng thẳng trộn lẫn với hồi hộp, tôi chợt nhớ đến quê nhà, nhớ Cha tôi lắm, giờ này nếu Cha còn sống, chắc là Cha sẽ trằn trọc lo cho tôi trận đánh đêm nay và nghe tin đài báo hằng ngày. Cha không còn nữa, tôi thì ở thật xa. Mới ngày nào mà đã tròn 5 tháng Cha tôi bị bom giặc Mỹ giết. Mộ Cha giờ đây chắc cỏ đã mọc xanh. Tới bao giờ tôi mới được trở về để thắp cho Cha nén hương tưởng niệm để tỏ lòng thành kính. “Đêm nay và ngày mai, con sẽ trực tiếp đối mặt với kẻ thù. Tôi lại nao nao nghĩ đến Thoa, giờ này em đang làm gì nhỉ? Lớp học đã tan chưa? Em còn học bài hay ngủ rồi? chắc em cũng lo cho tôi nhiều lắm. Tôi biết rằng em và tôi đang ở rất xa nhau nhưng trái tim và tình cảm vẫn luôn hướng về nhau. Nếu như em được nhìn thấy những gì khốc kiệt mà người lính như tôi phải trải qua, chắc em thương tôi mà khóc cạn nước mắt. Lời thư của em văng vẳng bên tai tôi: “Anh ơi, em đã kể chuyện của chúng mình cho mẹ nghe rồi, mẹ cũng thương anh lắm. Mẹ bảo sao không đưa anh về quê chơi. Em có nói chúng con đang chuẩn bị thì anh đi bộ đội…”.
Rạng sáng ngày 5 tháng 3, đại đội hai chia làm ba mũi tấn công đại đội lính Mỹ ở đồi Chư Đô bằng thủ pháo, lựu đạn và súng B40. Những tiếng thủ pháo, lựu đạn nổ chát chúa. Các lô cốt và hầm chỉ huy của địch lần lượt bị quân ta chiếm lĩnh. Khi các hướng tấn công của ta vào trung tâm căn cứ đang phát triển tốt thì một tình huống bất ngờ xảy ra: Bộ binh địch chui hết xuống hầm, pháo lớn từ Chư tăng- Kra bắn cấp tập vào ngay trận địa. Những tiếng nổ rền rã của bom đạn không ngừng nghỉ. Máy bay địch quần lượn bắn phá không ngớt. Có chỗ lửa bốc cháy dữ dội. Do còn ít kinh nghiệm, lúng túng trong xử lý tình huống nên anh em C2 bị thương vong khá nhiều. Tuy nhiên, tổn thất của địch cũng không nhỏ. Sau mười lăm phút giao tranh, bảy mươi tên lính Mỹ đã bị tiêu diệt. Xác của chúng rải rác trên trận địa.
Trời sáng. Căn cứ địch ở Chư Đô không còn nguyên vẹn như hôm qua nữa. Nhiều hố pháo lớn xuất hiện khiến cho khu đồi lở loét như người bị ghẻ kềnh. Hàng rào dây thép gai bùng nhùng, bị phá đi nhiều đoạn. Một số lô cốt, ụ hỏa lực bị san bằng hoặc sứt mẻ nham nhở. Thời gian yên tĩnh không kéo dài. Từ Chư tăng-Kra pháo của địch đã bắt đầu sủa. Chúng bắn tấp cập vào đồi Cháy, hết đợt này đến đợt khác. Đất đá và những mảnh pháo bay rào rào, khói lửa trùm lên trận địa mịt mù. Tai chúng tôi ù đặc và nhức. Mấy con vượn đen trũi như than chạy nhảy hốt hoảng gọi nhau vang vọng cả khu rừng. Chúng kêu la hốt hoảng, những con sống sót thì cũng di chuyển sang hướng quả đồi bên kia. Pháo kích ngưng thì máy bay phản lực và trực thăng Mỹ đến ném bom na-pan và bắn rốc két. Từng vệt lửa hừng hực bốc cao trên mặt đất. Đồi Cháy vốn đã trơ trụi nay càng trơ trụi hơn. Lửa bom na-pan bén vào cả những cành cây ngụy trang của chúng tôi. Đồi Cháy bị tro than phủ kín một màu đen lem luốc. Chẳng nói gì cây cối, đất đá, mặt mũi, quần áo chúng tôi đen nhẻm hết lượt. Khẩu đại liên của tiểu đội chúng tôi đã đĩnh đạc lên tiếng. Chúng tôi có 3 người tập trung vào khẩu đại liên, người thì tiếp đạn, người xạ thủ, có nhiệm vụ bắn và người thì chuẩn bị. Tôi thì dùng súng bộ binh AK cùng bắn máy bay. Ai cũng tháo vát, nhanh nhẹn, khẩn trương. Bất chấp bom đạn của giặc, khẩu đại liên Cô-li-nốp nhằm vào máy bay phản lực và trực thăng nhả đạn. Lúc này thì không còn bí mật được nữa, chúng tôi một mất một còn đối mặt với kẻ thù hung hãn.
Địch phát hiện ra trận địa của ta nên chúng càng bắn phá ác liệt hơn. Mặt trời gần đứng bóng thì trực thăng bắn đạn hóa học xuống đồi Cháy. Tôi và anh Loan thấy máy bay bắn từng quả như cục pin đại xuống gần hầm. Khi những cục như chiếc bin đại chạm đất thì phụt ra làn khói xanh và lan tỏa khắp mặt đất. Tôi thấy nước mắt cay sè, mũi khó thở liền nói như ra lệnh với anh Loan: Chất độc, đeo mặt nạ vào. Mặc cho việc chuẩn bị đã sẵn sàng nhưng khi có chất độc tôi thấy hơi luống cuống. Sau món vũ khí hóa học ác hiểm là những màn bổ nhào ném bom của lũ máy bay phản lực. Kẻ địch cho rằng Việt cộng không chịu được khói đạn hóa học sẽ từ hầm chui lên và khi gặp bom, pháo sẽ thương vong nhiêu.
Im ắng được mấy phút, chúng tôi tranh thủ ăn cơm trưa. Ăn vội vàng qua quýt, thậm chí vừa ăn vừa nghĩ đến nhiệm vụ tiếp theo, nét mặt ai cũng căng thẳng, lo âu trước người chỉ huy mình hy sinh. Mặt mũi ai cũng nhọ nhem, chân tay chai sạn, tóc tai bơ phờ. Khi ăn cơm, ai cũng làm phép chùi tay vào quần áo cho đỡ bụi bẩn, nắm cơm cầm trên tay cũng dính tro than nhọ nhem. Mùi khói bom khét lẹt. Cổ họng khô khát nhưng anh em bảo nhau cố gắng ăn hết khẩu phần để lấy sức chiến đấu với giặc. Miếng cơm cuối cùng chưa trôi khỏi cổ thì máy bay địch lại gầm rú trên đầu. Từng loạt, từng loạt bom sát thương, tiếp đến là bom cháy nổ đinh tai nhức óc, cả quả đồi bị giật phá rung lên theo làn sóng xung kích của bom. Mảnh bay rào rào, khói lửa cuồn cuộn. Có lẽ nó đã đoán đúng khẩu đại liên tai hại mà bọn chúng cần tiêu diệt. Bỗng một quầng lửa bùng lên hung dữ, trùm lên khẩu đại liên. Anh Hoàng thét lớn: “Địch ném bom napan trúng trận địa rồi, các đồng chí phải bình tĩnh”.- tiếng thét của anh khiến cho cả trận địa của chúng tôi chú ý và tập trung cao độ để chiến đấu và cảnh giác. Tôi và anh Loan cũng bị thương, hai bàn tay bị bỏng do dính chất cháy của bom. Quả bom sát thương nổ gần hầm không ai bị thương nhưng bị sức ép. Ngực đau, khó thở. Nhưng nhìn anh Hoàng như ngọn đuốc sống thì quên hết đau đớn.
Tôi nhìn anh Hoàng- người chỉ huy trưởng của tiểu đội tôi bị dính bom napan cháy nhưng anh như ngọn đuốc sống, vẫn chỉ huy khẩu đội đại liên bắn trả lại máy bay giặc. Hình ảnh ấy tôi không bao giờ quên được, cái ngỡ như chỉ xem trên phim ảnh hay đọc trên những trang báo lại là hiện thực trước mắt tôi. Chất anh hùng của người lính cách mạng là có thật chứ không phải do chúng ta bịa ra hoặc tô hồng cho nó đẹp thêm. Cùng lúc đó, hai chiếc máy bay trực thăng Mỹ đã bị trúng đạn đại liên, bốc cháy dữ dội và rơi ngay đồi bên cạnh.
Anh Hoàng bị bỏng toàn thân vì lửa napan. Anh vẫn cố chịu đựng, dù rất đau đớn. Khi chúng tôi băng bó cho anh, anh đã rất yếu. Bằng giọng nói rất nhỏ nhẹ, anh động viên chúng tôi: “Có thể bộ binh địch sẽ tấn công vào đây… cuộc chiến đấu diễn ra còn ác liệt lắm…anh em mình cố gắng giữ vững trận địa…. đừng cho địch chiếm”. Giọng nói của anh càng nói càng đuối dần, đôi mắt nhắm lại. Miệng hơi mấp máy muốn uống nước. Tôi lấy thìa bón cho anh ít nước. Anh uống nước thật ngon lành. Nhìn sắc mặt anh ngày càng nhợt nhạt, cái chết đang đến gần với anh từng giây mà chúng tôi bất lực, ai cũng xót thương. Tất cả anh em, những người đứng vây quanh anh, phần lớn đều bị thương, nhưng, ai cũng lặng lẽ lắng nghe từng lời của anh căn dặn. Rồi anh không nói được nữa. Khoảng 3 giờ chiều thì anh trút hơi thở cuối cùng. Anh mất đi giữa lúc trận địa còn mịt mù khói lửa. Nhưng trong lòng mỗi chiến sĩ vẫn rực lửa căm thù quân cướp nước, quyết biến đau thương thành hành động cách mạng.
Nhìn anh Hoàng nằm bất động trong hầm mà lòng tôi bùi ngùi xúc động. Anh như người anh cả, như người chị hiền trong đơn vị. Ngày nghe tin Cha mất, tôi suy sụp và khụy ngã hoàn toàn. Trong lúc khó khăn đến cùng cực ấy, anh là người chia sẻ động viên, an ủi và nâng bước tôi đi. Nếu không có anh chắc chắn tôi chẳng hành quân vào đây với đơn vị được. Trước trận đánh này, anh đã nhắc nhở chúng tôi kiểm tra rất kỹ về vũ khí, trang bị, lường trước những tình huống xấu có thể xảy ra như địch dùng vũ khí hóa học chẳng hạn. Các phương án chiến đấu do anh vạch ra cho tiểu đội thật chính xác. Anh là con người không chỉ có lòng dũng cảm mà còn có nhiều thực tiễn trong chiến đấu.
Anh ra đi khiến tôi thấy trống trải và buồn thương vô cùng. Tiếc thương một người chỉ huy tài giỏi, nhanh nhẹn, gần gũi, sâu sát anh em, giờ không còn nữa. Cả tiểu đội trĩu buồn. Mấy hôm trước, anh Hoàng đã nói với tôi: Sau ngày thống nhất giang sơn, thế nào cũng về quê thăm gia đình tôi, thăm quê Bác Hồ, thăm dòng Sông Lam thấm đẫm câu dân ca xứ Nghệ. Anh đã kể cho tôi nghe về hoàn cảnh gia đình anh. Bố mất sớm, mẹ ở vậy nuôi anh. Đã mấy lần mẹ mong anh về để lấy vợ. Mẹ anh đã già. Trước lúc đi bộ đôi, mẹ anh cũng đã dạm cho một cố gái trong làng xinh xắn, ngoan ngoãn và hay làm. Anh nói rằng chờ cho chiến tranh kết thúc sẽ về lấy vợ và sinh cho mẹ một đứa cháu để bồng. Anh cũng hy vọng, sau này đất nước thống nhất, anh sẽ về với cuộc sống ruộng vườn như ông bà, tổ tiên đã sống. Một ước mơ bình dị thế mà không thực hiện được. Không hiểu mẹ anh Hoang có linh cảm đến sự đau thương này không. Anh Hoàng ơi. Em coi anh như người anh cả, chị hiền, bao nhiêu lần anh đã động viên em, giúp đỡ để em vượt qua những nỗi đau, mất mát. Sau này thống nhất, nếu còn sống em sẽ về với gia đình anh. Tôi bồi hồi xúc động lẩm bẩm với anh linh Anh Hoàng. Mong anh an nghỉ suối vàng và phù hộ độ trì cho tiểu đội chúng tôi vượt qua thử thách ác liệt này.
Chiều chầm chậm qua đi, hoàng hôn buông xuống. Cánh rừng lúc này chợt im ắng nhưng vết tích của trận đánh vẫn còn nóng bỏng. Vây bọc trận địa của chúng tôi là màn đêm nhàn nhạt của cao nguyên hòa trong ánh đèn dù nhập nhoạng ở phía đồn địch. Xa xa tiếng ì oàng của pháo cối địch. Chốc chôc lại có những đợt pháo kích từ phía Chư Tăng-Kra bắn lên xung quanh Chư Đô và đồi Cháy. Có lẽ đây là các đợt pháo kích cầm canh để bảo vệ Chư Đô. Tối ngày 5 tháng 3 năm 1969 khẩu đội đại liên chúng tôi được lệnh rút khỏi Chư Đô tiến về phía Ngọc Ta Lung để làm nhiệm vụ mới. Chúng tôi vừa hành quân vừa đưa thi hài anh em liệt sĩ và thương binh nặng ra phía sau. Có rất nhiều việc, thời gian lại gấp rút nên ai cũng khẩn trương, tranh thủ thời giờ. Nhìn đồng đội nằm xuống, ai cũng xót thương. Có chiến sĩ thân thể không còn lành lặn, be bét máu, thấm đỏ cả chiếc áo, đất cát bám đầy người. Cũng rất may lúc này có mấy đồng chí vận tải của tiểu đoàn nên thương binh, thi hài liệt sĩ và vũ khí được mang ra an toàn và kịp thời. Sau trận Chư Đô, khẩu đội tôi được bổ sung thêm quân để bước vào những trận đánh mới.
Đối với tôi, trận đánh này là trận đáng ghi nhớ. Hình ảnh ngọn đuốc sống Vương Tử Hoàng mãi mãi cháy trong tôi như một vầng sáng bất tử. Đến bây giờ khi đọc lại Lịch sử trung đoàn 28, lòng tôi vẫn ngập tràn xúc động, bồi hồi nhớ lại những ngày oanh liệt cùng những đồng đội của mình:
“Trong trận lửa thử đầu tiên vô cùng ác liệt và đầy cam go trên chiến trường mới, cán bộ chiến sĩ trung đoàn 28 đã phát huy cao độ sức mạnh lớn lao của lòng yêu nước, ý chí chiến đấu dũng cảm ngoan cường, trí thông minh sáng tạo… Tuy đây là trận đầu thử sức nhưng Trung đoàn đã khẳng định được vai trò của một đơn vị chủ lực của mặt trận Tây Nguyên. Trải qua bom đạn ác liệt, nhiều tấm gương chiến đấu tiêu biểu có sự cổ vũ lôi cuốn như tập thể tiểu đoàn 1. Đặc biệt là hình ảnh đầy khí phách anh hùng của người Khẩu đội trưởng đại liên, người Đảng viên ưu tú Vương Tử Hoàng ở khu vực Chư Đô. Giữa bom thù dữ dội, lửa napan trùm khắp trận địa và khắp thân mình nhưng Vương Tử Hoàng vẫn hiên ngang trên vị trí chỉ huy, tiếp tục hạ lệnh cho khẩu đội bắn rơi 2 máy bay Mỹ và trước lúc hy sinh vẫn dành hơi thở cuối cùng để động viên đồng đội giữ vững niềm tin, ý chí chiến đấu. Tấm gương bất khuất Vương Tử Hoàng và ánh sáng từ “cây đuốc sống” ấy không những là nguồn cổ vũ lớn lao, niềm tự hào bất diệt mà còn mãi mãi tỏa sáng trên chặng đường chiến đấu gian khổ nhưng sáng chói những chiến công của Trung đoàn 28 và lực lượng vũ trang nhân dân Tây Nguyên…”
*
* *
Khi rút khỏi Chư Đô, Trung đội trưởng Viên Đình Thực phổ biến vắn tắt:“Đơn vị chúng ta hiện nay nằm trong đội hình lớn của chủ lực mặt trận đang bao vây sư đoàn 4 của Mỹ tại đây. Khẩu đội đại liên của các đồng chí có nhiệm vụ đánh địch đổ bộ bằng máy bay để bảo vệ trung đoàn pháo binh 40 và yểm trợ bộ binh xung phong diệt lính dù”.
Anh em chúng tôi nghe nói thế rất phấn khởi. Cả tiểu đội hành quân đêm khẩn trương. Đêm mùng 7 tháng 3, khẩu đội tôi trong đội hình của đại đội 1, tiểu đoàn 1 được bố trí chốt giữ tại một đồi tranh ven sông Sa Thầy. Màn đêm đen kịt trùm lên khắp mọi nơi, ngỡ như có thể xắn ra từng miếng được. Không gian im ắng lạ thường. Đến nơi là bắt tay vào đào hầm trú ẩn ngay. Đất ở đây toàn sỏi đá và trời lại tối như mực nên đào rất khó khăn. Đào sâu được một đoạn vừa người nằm, Trung đội trưởng Viên Đình Thực cho tạm nghỉ, chờ trăng lên đào tiếp. Tôi liền mắc màn nằm ngủ cùng anh Thực và Lệ. Trước lúc ngủ, anh Thực đi kiểm tra anh em có mắc màn không. Muỗi nhiều vô kể như hốt được. Mấy đêm chốt ở Chư Đô không ngủ nên bây giờ đặt lưng xuống là ngủ như chết. Cả tiểu đội đang chìm trong giấc ngủ thì bỗng nghe hàng loạt tiếng nổ, mở mắt ra thấy chớp khói liên tục, mặt đất giật giật như có thể vỡ ra được, đất bay rào rào, loạn xạ, cây cối đổ ngổn ngang. Trong tiếng nổ rầm trời đó, có ai hô to: “B52!”- Tiếng ai đó kêu lên chưa dứt thì lại tiếp hàng loạt tiếng nổ, đất trời như bị sụp xuống bởi những tia chớp sáng xanh. Những tiếng nổ liên tiếp của hàng loạt trái bom B52 nghẹt thở. Mảnh bom xé gió bay vun vút, khói lửa sặc sụa. Tôi chưa định hình ra làm sao, chỉ biết nằm úp mặt xuống đất, hai mắt nhắm nghiền. Tôi nghĩ, nếu bom nổ thế này có thể chết mất, không bị mảnh cũng bị sức ép, mà chết cũng mặc, chẳng biết đi đâu bây giờ. Tiếng bom đợt một vừa nghớt. Tôi ngẩng đầu lên quan sát thấy chiếc màn bay đâu mất. Anh thực đi đâu rồi. Mà sao chẳng nghe tiếng gì cả. Tôi gọi Lệ dậy để báo có bom B52 nhưng lay mãi mà Lệ không dậy. Sờ vào người Lệ thấy máu chảy đầm đìa. Lệ bị mảnh bom hy sinh ngay loạt đầu. Vừa lấy tay lay nhẹ Lệ thì có bàn tay nào đó túm vào vai áo tôi lôi dậy chạy. Tôi như cái máy, chỉ biết cắm đầu cắm cổ chạy theo bóng người đó như thôi miên. Chạy được một đoạn vài chục mét, người đó dí tôi xuống một cái hố mà tôi biết có thể là cái hố bom. Tôi và người đó vừa lăn xuống hố thì lại một đợt B52 tiếp tục. Người đó nằm lên tôi. Đất trời rung lên bần bật khiến tôi mất đi cảm giác, cũng chẳng biết mình đang như thế nào. Hơi bom quất mạnh làm cho người tôi bị sức ép, khó thở. Mọi cảm giác dường như bị tê cứng. Tai ù đặc, mũi nghẹt thở. Mắt cay xè. Người lảo đảo, liêu xiêu. Tôi không thể cảm nhận và nhìn mình xem có bị thương hay không nữa. Mọi giác quan như tê liệt, không phải vì sợ hãi mà sức ép của bom quá lớn. Tôi chỉ biết tựa mình vào vách hầm cho đỡ thở. Vừa dứt tiếng bom là bóng người đó lại chạy đi. Dưới ánh trăng vàng ệch và bị che phủ của hơi bom mịt mù, tôi thấy nằm cạnh tôi có môt số người. Tôi cũng không nhận ra ai nữa, và cũng quá mệt nên cũng chẳng hỏi han được ai. Nhưng tôi đoán đó là bộ đội, có người còn sống, có người bị thương, có người hình như đã chết, nằm còng queo. Tôi có cảm giác như đang ở giữa thế giới xa lạ, môt địa ngục trần gian của sự hủy diệt và chết chóc. Tôi thấy đau nhói trước ngực, sờ vào thấy máu me đẫm ướt cả áo, chân trái nhức đau, sờ xuống cũng thấy máu…Sau đó tôi thấy tai ù, mắt hoa và người bị lả đi không biết gì nữa.
Ngày hôm sau tôi tỉnh lại và thấy mình đang nằm tại bệnh viện 211 của Mặt trận. Bác sĩ cho biết, tôi bị thương vào chân, bị gãy xương sường và bị sức ép bom tương đối nặng. Cũng may gáo vẫn còn và mảnh đạn găm vào ngực nhưng chỉ làm gẫy xương sườn, chứ nó vào tim thì coi như đã hết. Sau đó tôi gặp nhiều người cùng đơn vị cũng bị thương nằm ở đây như Ngọ, Trự, Đức…Các bạn kể lại rằng, trận bom B52 xảy ra quá nhanh, quá bất ngờ và thực sự ghê gớm. Đội hình của đơn vị chúng tôi nằm gọn trong tọa độ rải thảm của những chiếc pháo đài bay hiện đại nhất của Mỹ thời bấy giờ. Đơn vị thương vong nhiều. Nhưng tôi thắc mắc là ai lôi tôi đi lúc đó thì không ai lý giải được. Lúc này tôi mới nhớ là chiếc ba lô của tôi đã mất. Có lẽ giá trị nhất trong chiếc ba lô ấy là những lá thư của Thoa, không còn nữa. Tôi vừa buồn vừa tiếc. Đã kinh qua bao nhiêu thời gian và đã đi qua bao núi, bao đèo, những lá thư của em vẫn luôn bên tôi. Tôi đã hứa với em là sẽ cùng sống chết với những lá thư đó cơ mà. Sau này, tôi đã nhờ bạn bè đồng đội tìm mãi mà không thấy. Đã nhiều lần tôi nhắn người về đơn vị cố tìm xem chiếc ba lô của tôi có ai cất hộ, nhưng không có tin tức gì.
Bệnh viện 211(là số cộng của bệnh viện 103 và bệnh viện 108) nằm sâu trên đất nước chùa Tháp Căm-pu-chia, giữa chốn đại ngàn trùng điệp. Con đường đi vào đây cách biệt và lặng lẽ. Có những dãy núi cao mây mù bao bọc ẩm ướt. Lán thương binh vách nứa, mái lợp cũng bằng nứa, nằm dưới tán rừng rậm rạp, dọc theo con suối trong veo mát lành. Rừng đầy tiếng gió, tiếng chim. Từ mặt trận về đây không xa lắm nhưng quang cảnh hai nơi khác nhau hoàn toàn. Một bên xơ xác, tan hoang, một bên thanh bình, tươi tốt. Bệnh viện 211 có các bác sĩ chuyên khoa dày dạn kinh nghiệm trong việc cứu chữa thương bệnh binh. Nhìn thấy các bác sĩ mặc áo plu màu trắng, chúng tôi thấy phần nào vợi đi những lo lắng về vết thương của mình. Bệnh viện 211 có nhiều khoa và đóng trên các sườn núi của rừng già nguyên thủy.
Họ cứu thương và chữa trị cho biết bao nhiêu người được hồi phục về sức khỏe và trở về đơn vị tiếp tục chiến đấu. Tôi được các bác sĩ mổ lấy mảnh đạn găm vào xương sườn và điều trị sức ép. Sau một thời gian điều trị, vết thương ở ngực lành dần, sức khỏe tôi dần được bình phục. Lúc bình phục, tôi có cảm giác chiến tranh như ở một nơi nào đó, rất xa, rất xa. Lẽ ra trong không khí này, tôi phải thấy yên ổn thoải mái nhưng ngược lại, lúc nào cũng bồn chồn nhớ đơn vị. Những tháng ngày gian khổ chúng tôi luôn có nhau. Tôi nghĩ đến tiểu đội đại liên yêu dấu, nghĩ đến đồng đội, những người bạn chia sẻ ngọt bùi cay đắng, buồn vui, sướng khổ có nhau. Loan, Trữ, Xuân, Dung, Chương… và bao nhiêu anh em nữa đang đội bom, đội đạn nơi mặt trận, biết ai còn, ai lại nằm xuống, có trận đánh nào mà không có hy sinh! Tôi lại an nhàn như thế này ư? Tôi mong mình nhanh khỏi để trở về đơn vị chiến đấu cùng những đồng đội thân yêu của mình. Tôi nhớ mọi người lắm rồi và chắc mọi người cũng vậy, mong tôi về lắm đây. Ở trong viện 211 này, có những người phải nằm điều trị lâu thường lo lắng, nóng lòng nghĩ về đơn vị, nhưng khi sắp xuất viện thì lại bị cảm giác lưu luyến rất khó tả níu giữ, nhất là khi đi chào và động viên những anh em thương binh còn nằm lại, khi cảm ơn các bác sĩ, y tá “ thầy thuốc như mẹ hiền”.
Một hôm đang khấp khiểng lê bước lên khoa chấn thương thì thật bất ngờ tôi được gặp Dung, Ngọ và Đức- những người bạn đồng hương, cùng học trường cấp III Nam Đàn và cùng nhập ngũ một ngày, cùng tiểu đoàn. Thì ra, trận B52 đêm ấy đã cày vào đúng đội hình của Tiểu đoàn 1 của chúng tôi, nhiều đồng chí đã ngã xuống bên bờ sông Sa Thầy khi chưa kịp nổ súng hiệp đồng chiến dịch. Dung và Đức cũng bị thương trong trận bom ác liệt ấy.
Sau những lời thăm hỏi rối rít “khoe” với nhau những vết thương trên mình. Đứa nào cũng cho rằng mình gặp may chứ không thì đã bị cắt quân số rồi. Đức còn trêu tôi “Bọn tao ngoẻo còn được chứ mày chết thì em Thoa chắc cạn nước mắt”. Tôi kể cho hai đứa nghe về những lá thư của Thoa bị B52 đánh bay. Hai đứa lặng im chia sẻ. Vào đây, đứa nào cũng thèm khát tin tức ở quê nhà, lo lắng cho gia đình và người thân. Dung cũng buồn nhiều như tôi vì lá thư nào của Thoa gửi lên tôi cũng cho Dung đọc. Dung công tác trên tiểu đoàn bộ, tôi lính đại đội, thỉnh thoảng có dịp gặp nhau, Dung đều hỏi chuyện Thoa, tôi chẳng giấu Dung điều gì.
Vết thương của tôi hồi phục khá nhanh. Qua anh em, tôi biết đơn vị mình đang vây lấn cứ điểm Plây Cần. Các bác sĩ khuyên tôi ở lại điều trị thêm thời gian nữa để vết thương khỏi hẳn, nhưng tôi nóng ruột lắm, đứng ngồi cũng không yên, tôi thấy mình có đủ sức lực nên cố gắng xin ra viện sớm. May thay, nguyện vọng của tôi được đồng chí trưởng khoa chấp nhận. Cái khó khăn của tôi lúc đó là đang tay trắng. Ba lô bị mất tăm. Khi vào viện tôi là một anh lính “trên răng dưới cát-tút” đúng nghĩa đen của nó. Tôi chỉ còn duy nhất một bộ trang phục bạc màu đang mặc trên người. Ngọ thấy thế đã không chần chừ lôi từ ba lô con cóc của mình ra đưa cho tôi một bộ quân phục Tô Châu xanh. Ngọ đưa áo quần cho tôi và tếu táo cười nói:
- Tao cho mượn chứ không phải cho hẳn đâu nhé. Nhớ ghi vào sổ để mai này giải phóng thì mang trả cho tao. Lúc đó, nhớ trả công và mời tao đi dự cưới đấy.
Tôi mỉm cười nhận bộ quần áo từ tay anh và xem đó như là một lời mong, lời chúc phúc của anh dành cho tôi, một người lính lại sắp xung trận. Ngọ cầu mong tôi được bình an cho đến ngày chiến tranh kết thúc và được hạnh phúc bên Thoa. Ngọ là lính cùng đại đội 4 với tôi. Ngọ bị thương nặng ở lưng và bụng, khi vào viện được anh em cứu thương, tha được ba lô theo cùng nên còn có áo quần cho tôi. Thấy tôi không có ba lô, Đức giở quân tư trang của mình gói vào chiếc túi nilon vẫn sử dụng làm phao bơi khi vượt sông suối và trao ba lô cho tôi. Tôi không chịu nhận thì chiến hữu của tôi đã nói như quát:
- Cứ lấy đi. Lúc này mày cần hơn tao. Vết thương của tao còn phải nằm lâu. Sau này ra viện tao sẽ có cách, anh em ở đây còn nhiều lắm. Ngoài chiến trường thương yêu và chia sẻ cho nhau như thế nào thì nơi đây cũng thế cả. Mày đừng ngại, của tao cũng là của mày mà. Thế mới gọi là lính chiến chứ. Chiến tranh có chia phần và lĩnh phần thắng lợi đâu, nhiệm vụ chung và mục đích chung cơ mà… Đức là người Nam Cát, cùng học và cùng nhập ngũ. Nghe Đức nói cứ ý như chính ủy. Tôi nhìn Đức ái ngại:
- Mình về đơn vị sẽ có bổ sung mà. Ai lại lấy của thương binh nhiều thế này…Đức hua tay và an ủi tôi:
- Mày đừng băn khoăn nữa, chuyện vặt ấy mà. Tất cả phải ưu tiên cho tiền tuyến. Đức vừa nói vừa đưa chiếc ba lô cho tôi.
Từ tay không, bỗng dưng tôi có nhiều thứ. Anh em thương binh trong lán, người cho tôi cái tăng, người cho cái võng, chiếc bát sắt, quần đùi và cả lương khô nữa. Nhìn chiếc ba lô căng tròn, tôi đứng ngây người ra như bị trời trồng, xúc động nghẹn ngào không nói lên được lời nào. Tôi cảm động quá. Mọi người gửi gắm niềm tin ở tôi rất nhiều. Tất cả mọi câu nói lúc này dường như không cần thiết nữa, nếu nói ra nó sẽ trở nên khách sáo xa lạ biết bao nhiêu. Tôi im lặng nhìn mọi người. Những khuôn mặt hốc hác, xanh xao, vàng vọt, những đôi môi thâm rịt vì mất máu và bị sốt rét. Họ phải uống nhiều thuốc mà. Những vòng băng cuốn trên người, trên mặt, trên bụng, chân tay… những chiếc nạng, chiếc gậy đặt kề bên. Hình ảnh những chiến binh trận mạc không lẫn vào đâu được. Chiến tranh không phải là trò đùa. Những người lính chúng tôi nói câu nói ấy bằng máu của mình. Ai cũng chia sẻ và gửi lời thăm hỏi đến những người bạn chiến đấu cùng với tôi. Tôi mang niềm tin và hy vọng của mọi người quay trở lại đơn vị. Tôi hồ hởi, phấn khởi gom những kỉ niệm nơi đây về kể cho đồng đội nghe. Ở tiểu đội tôi làm gì có cô y tá hay bác sĩ nào đâu nên mọi người muốn nghe chuyện lắm. Mọi người sẽ xúm lại mà hỏi tôi đủ mọi thứ. Tôi thấy trong lòng vui vui, cứ ngỡ là con chim én mang mùa xuân đến cho tiểu đội..
Tây Nguyên- đến lúc này thì tôi đã thấm thía một Tây Nguyên gian nan, hiểm nguy mà sâu nặng, ấm áp tình đồng đội, tình đồng bào. Tây Nguyên thiếu thốn nhiều thứ lắm. Các nguồn tiếp viện dường như bị tắc nghẽn, cạn kiệt dần nhưng ý chí của con người vẫn ngùn ngụt, đói ăn đói, nghèo mặc nghèo. Trên cao nguyên mênh mông này, thời ấy một hạt muối, một cọng rau, một viên thuốc kí-ninh cũng muôn phần quí giá lắm, nó quí giá như chính mạng sống của con người. Vì muốn có nó, chúng ta phải đổi bằng máu của các chiến sỹ, đồng bào. Trời Tây Nguyên một ngày bốn tiết, ngày nắng như nung, đêm đến thì rét cắt da, cắt thịt… chiếc chăn mỏng tang, anh em đôi khi còn ôm nhau ngủ cho ấm. Chỉ riêng việc chịu đựng khí hậu khắc nghiệt của Tây Nguyên đã vất vả lắm rồi. Có lẽ sức chịu đựng gian khổ và sự cố gắng khắc phục khó khăn đã thành quen trong ý thức mỗi người chiến sĩ. Đồng đội tôi tiếng là các đơn vị chủ lực nhưng phải dùng gùi thay ba lô, quần dài rách thì cắt dần ống để làm mảnh vá, áo dài tay bị biến thành áo cộc tay, vá đụp vá chằng nom rất cơ cực. Mũ thiếu, phải dùng khăn tay che nắng mùa khô, đi được vài cây đã thấy khăn trên đầu khô đanh lại và cũng chính nó, lính dùng để lau đầu, lau mặt mùa mưa. Rừng thiêng nước độc. Muỗi nhiều như trấu, vắt như muôn lớp lá đại ngàn, nếu không có võng nằm, không có màn che, không mảnh vải dù làm bọc thì đêm sẽ dài thăm thẳm và những cơn sốt rét sẽ ập đến bất cứ lúc nào. Vậy mà đồng đội đã nhường cho tôi những thứ quí giá của mình, từ tay không tôi lại có tất cả. Nói bao nhiêu, nói thế nào cho hết nỗi xúc động đang dâng trào trong tôi. Tôi cảm ơn đồng đội của mình và mong cho mọi người mau bình phục, chúng tôi có một lời hẹn ước với nhau sau ngày độc lập sẽ gặp nhau, nhất định là như vậy, còn bây giờ cuộc chiến gian nguy đang ở phía trước.
Viện 211 ngày ấy nhiều con gái quê ở Hà Tĩnh lắm. Những cô gái quê ở ven dòng sông Lam thơ mộng, cách làng tôi không xa mấy đã tình nguyện đi thanh niên xung phong từ thời tôi còn học cấp II. Chiến trường ngày càng mở rộng, họ đi dần vào mặt trận Tây Nguyên làm y tá, cứu thương, hộ lý, nuôi quân rồi gắn bó với cái quân y viện trong rừng xanh núi đỏ này. Chính những cô gái đó đã làm mềm đi cuộc chiến tranh khốc liệt này, họ là niềm tin, yêu thương, nguồn động viên của rất nhiều cán bộ chiến sỹ B3. Trong cơn đau do vết thương hoặc căn bệnh hành hạ, chúng tôi đã được các cô chăm sóc, nâng dìu, an ủi, động viên. Lời động viên của các cô như xua tan đi mọi đau đớn. Những lúc yếu lòng, bi quan chán nản, hoang mang, được nhìn các cô gái quân y, chúng tôi giật mình tỉnh ngộ và ý chí được vực dậy cùng với tình yêu cuộc sống cũng ấm nóng lên. Khi vào Tây Nguyên tôi thường được các cựu binh nhắc đến nhiều các cô gái Nghệ Tĩnh duyên dáng chăm chỉ ở viện 211 này. Họ hay kể cho cánh tân binh chúng tôi nghe về các cô tên Hợi, cô Hiếu… da trắng tóc dài, những cô San, cô Xinh… hiền lành đằm thắm, nhẹ nhàng. Kể đi kể lại hấp dẫn đến nỗi có người lính “ao ước” bị thương hay bị ốm một lần để đi viện 211. Những gì tôi kể ra đây là thật, là hoàn toàn thật. Nơi đơn vị chiến đấu, toàn cánh đực rựa cồng kềnh với nhau, lại là lính tráng xốp xáp, tuyềnh toàng, bói đâu ra được bóng hồng xinh đẹp để ngắm nhìn, trò chuyện. Suốt năm, suốt tháng chỉ nghe rặt một giọng đàn ông ồm oàm, thử hỏi ai không muốn gặp các chị, các cô? Gặp chỉ để được nghe cái giọng chất thanh thanh của người khác giới thế là vui lắm rồi. Những cô gái cũng như linh hồn của trận đấu, rất dũng cảm, làm việc gì đảm việc đó nên lính chúng tôi có ai mà dễ dàng quên được.
Sáng mồng 3 tháng 5, tôi được ra viện. Tạm biệt quân y 211 để về đơn vị, tiễn tôi ra đến con suối phía trước bệnh viện là mấy đồng chí thương bệnh binh, các cô y tá, hộ lý quê ở Hà Tĩnh với giọng nói dễ thương. Nhưng nói gì thì nói, với lính trận chúng tôi thì ở được đơn vị vẫn vui hơn. Trên đường trở về đơn vị, tôi khấp khởi như chim sổ lồng. Đường rừng Tây Nguyên quanh co, uốn lượn. sương giăng sườn núi, những đám mây bay lững lờ…Cái háo hức được chiến đấu với đồng đội làm cho tôi thấy khỏe khoắn hơn. Tôi vừa đi vừa chạy như đứa trẻ con xa nhà nay mới được về với mẹ. Khi bước lên dốc, ngực vẫn thấy đau, chân vẫn nhức. Lá cây bên đường xào xạc theo bước đi. Tôi thấy mình rắn rỏi hơn và lâu rồi mới được đi một đoạn đường xa như thế. Cũng lâu lắm rồi, tôi mới được đi giữa núi rừng với không khí trong veo, thênh thang như thế này, khác với trong bệnh viện chỉ rặt có một mùi của bệnh tật, thuốc men. Đi giữa con đường với những bóng cây, không khí dễ chịu hẳn. Tôi ngẩng đầu nhìn trời cao và muốn kêu to lên với đồng đội “Mình đã về đây với các đồng chí rồi”, và thầm nói với người yêu đang ở hậu phương xa tít tắp rằng: “Vết thương anh đã đỡ rồi, anh khỏe hơn rồi, em có nghe thấy anh nói không?. Em gắng đợi anh thêm một khoảng thời gian nữa nhé, chỉ một thời gian ngắn nữa thôi là anh sẽ được về với em. Bây giờ chắc em cũng đang mong anh và đếm từng ngày một, đúng không?. Anh sẽ về với em khi đất nước thống nhất, sẽ đưa em đi trên con đường lộng gió của miền quê mình mà không còn sợ bom đạn của kẻ thù, anh rất nhớ em, hãy đợi anh về em yêu nhé”. Đường về đơn vị phải vượt qua biết bao đèo cao, suối sâu. Đi một đoạn lại phải hỏi đường. Cũng may, dạo này đang là chiến dịch nên dọc đường đi có nhiều bộ đội. Việc hỏi thăm đường cũng không vất vả lắm.
Đến gần tối, tôi mới về đến đơn vị. Được anh em cho biết tiểu đội đại liên đang tham gia chiến đấu tại cứ điểm Plây Cần. Đây là cứ điểm được Mỹ ngụy tập trung lực lượng, bố phòng chặt chẽ để ngăn cản đường tiến quân của quân giải phóng ở phía Bắc tỉnh Kon Tum. Anh em nghe tôi gọi, chạy túa ra, người ôm, người sờ nắn chân tay, hỏi han tíu tít. Hỏi sức khỏe của tôi, hỏi đến cả những đồng đội của tôi đang còn điều trị. Có người còn hỏi chuyện các cô ở viện 211 xinh đẹp. Tôi mừng rỡ được gặp lại mọi người, họ vây quanh tôi, tôi vừa thở vừa trả lời, lòng ấm áp như đứa em đi xa, nay được về với gia đình, gặp lại các anh em, có hai tháng xa nhau mà ngỡ như mấy năm trời. Suốt cả đêm ấy, tôi không sao ngủ được, những câu chuyện tôi kể cho mọi người nghe, bây giờ xa cả rồi, tôi thấy nhớ quá. Đêm nay, ở bệnh viện sẽ có bao nhiêu đồng chí nữa phải nhập viện, những người ở lại, bệnh tình có khỏe hơn không? Khẩu đội đại liên chính là gia đình thân yêu thứ hai nuôi dưỡng cuộc đời tôi. Chao ôi, cái gia đình nồng ấm và ngoan cường của tôi trải qua bao nhiêu trận đánh ác liệt giờ đây không còn nguyên vẹn nữa. Thêm một trận đánh là thêm thương vong trong lòng. Sau mỗi trận đọ sức với kẻ thù người còn, người mất, điều ấy không thể tránh khỏi. Chúng tôi những người còn đây không thể nói trước được tính mạng của mình nhưng không có ai nhụt chí và lùi bước. Tiểu đội tôi vẫn còn đây mà anh Vương Tử Hoàng không còn nữa. Nhìn đi nhìn lại chỉ có tôi là cựu binh. Những người cũ không còn ai. Bùi ngùi trước mất mát đau thương này. Con tim tôi lai nhói đau và đôi mắt lại rưng rưng khi nghĩ đến đồng đội mình đã hy sinh. Trước mắt tôi lại hiện lên rõ mồn một hình ảnh của anh Hoàng, cậu Lê, Ngọ, Thanh...Trong đó Thanh mất khi tuổi đời chưa đến hai mươi. Còn Lệ và anh Quyền thì bị thương, người mất tay, người mất chân, chắc chắn không thể tiếp tục chiến đấu được nữa. Ngọ bị thương cũng chưa thấy về. Các anh bị thương nặng trở về quê hương cũng không còn làm được gì.Tôi bùi ngùi nhớ những đồng đội yêu dấu của mình.
Cuộc chiến đấu vẫn còn tiếp diễn. Đây là điều mà mỗi chiến sĩ tiểu đội đại liên luôn xác phải định là nhiệm vụ thường xuyên và ưu tiên đặc biệt. Tiểu đội tôi được bổ sung thêm một số chiến sĩ mới như tiếp thêm sức mạnh. Tôi được đơn vị cho biết: hiện nay địch đã đổ bộ tiểu đoàn 3, trung đoàn 42 xuống phía nam Plây Cần, trận địa đại liên chỉ cách địch khoảng ba trăm mét. Điều đó chứng tỏ rằng ta và địch đang ở trong thế trận cài răng lược, rất gần nhau. Bởi vậy, tất cả mọi trận đánh sắp tới đều nguy hiểm và cần phải cẩn trọng hơn. Tôi được Trung đội Trưởng Viên Đình Thực giao quản lý khẩu đại liên Cô- li- nốp. Khẩu đại liên rất mới và ngắm nghía lau chùi hồi lâu, cảm giác thật hạnh phúc. Khẩu đại liên đã gắn bó với chúng tôi qua nhiều chiến trường và tỏ ra là loại hỏa lực rất lợi hại của bộ binh nhất là đánh địch đổ bộ, đánh địch phản công, là người bạn chiến đấu sát cánh sống chết cùng người lính chúng tôi. Tôi đưa súng lên tập ngắm chuẩn vào đầu ruồi của nó. Thấy vậy đồng chí Viên Đình Thực mỉn cười vỗ vai tôi:
- Chắc nhớ nó lắm à. Tôi nhìn Trung đội trưởng gật đầu:
- Báo cáo Trung đội trưởng. Đúng. Nhớ nó lắm ạ. Tôi ngắm nghía khẩu đại liên mới, hỏi Trung đội trưởng:
- Đây là khẩu súng mới hả Thủ trưởng? Đồng chí Viên Đình Thực gật đầu và nét mặt chững lai, đượm buồn, mắt hơi rơm rớm kể cho tôi nghe đơn vị dính B52 vừa rồi. Anh nói, từ ngoài B5 vào đây, đơn vị cũng đã hứng chịu nhiều đợt B52 nhưng đây là lần đầu tiên tiểu đoàn bị bom B52 rải trùm lên đơn vị. B52 rải bom xuống đội hình lúc 21h30 đêm 7.3.1969. Cũng rất may đêm đó anh em đã làm công sự nên cũng đỡ thương vong. Tuy nhiên, không chỉ các chiến sĩ thương vong nhiều mà vũ khí, khí tài cũng bị phá hủy nhiếu lắm. Khẩu đại liên cũng nằm trong số phận đó. Tôi cũng rất buồn khi nghe anh kể lại nhưng cũng phải hỏi thêm:
- Đến bây giờ em cũng chưa hiểu tối hôm đó ai lôi đi xuống hố bom và sau đó ai đưa đi bệnh viện? Anh Thực nhìn vào tôi, nét mặt tươi vui, anh vỗ vai tôi mỉn cười:
- Tớ lôi cậu đi chứ còn ai. Cả khẩu đại liên bị thương vong hết vì hai quả bom. Mình nằm với cậu và Lệ. Loạt bom đầu Lệ hy sinh, cậu bị thương. Mình tỉnh dậy thấy cậu còn sống mà gọi không thưa. Lúc đó cậu cứ “ngơ ngơ như bò đội nón”.- Anh Thực cười làm tôi cũng cười theo và nói tiếp:- Sau đó tớ thấy cạnh đó có hố bom, tớ đã lôi cậu xuống đó cùng mấy người. Cũng thật may, trong loạt bom thứ hai, có một quả nổ đúng vị trí chúng mình nằm. Xác Lệ tan tành. Khẩu đại liên cạnh đó chỉ còn đống sắt vụn. Nghe đến đây, tôi ôm choàng lấy anh Thực.
- Ôi. May quá anh ha. Không có anh thì em đã chết toi rồi. Thế còn chiếc ba lô của em? Anh Thực nhìn tôi vẻ vui sướng, lấy tay dí vào đầu tôi:
- Cái gáo của cậu cũng khá cứng. Chết sống có số đấy cậu ạ. Nói đến đây nét mặt anh biến sắc, buồn buồn:
- Còn chiếc ba lô mình đã cho kiểm tra kỹ nhưng không thể tìm được trong đống ngổn ngang ấy. Mình biết, cậu rất tiếc những lá thư của Thoa mà mấy lần mình đã được nghe đọc. Nhưng các cụ nói: của đi thay người mà. Nghe đến đây mọi chuyện mới vỡ ra. Đúng là chiến tranh thật nghiệt ngã. Nhưng chỉ có trong chiến tranh, những người đồng đội mới sống hết mình với nhau như anh Thực. Và cũng chỉ có đồng đội mới chia sẽ cho nhau cả sự sống của mình. Cho nên có người còn nói, tình cảm của các anh bộ đội là thứ tình cảm đồng đội, nó vừa lâu bền vừa chân thành và rất nhân bản.
Sáng ngày mồng 15 tháng 5 năm 1969, thêm một niềm vui đối với tôi. Tôi được chi bộ kết nạp vào Đảng. Đây là một cái mốc quan trọng, một kỉ niệm thiêng liêng của cuộc đời. Tôi đã trải qua một khoảng thời gian vất vả, thứ thách nhiều trong chiến đấu, lập được những thành tích, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nên được chi bộ Đảng ủy ghi nhận. Được kết nạp Đảng, phải xét nhiều mặt lắm, từ đạo đức cho đến tư tưởng và những cống hiến…
Lễ kết nạp Đảng được tổ chức tại công sự chiến đấu, không hề có hoa tươi, cờ Tổ quốc, cờ Đảng. Trên đầu tôi là trời xanh bao la, trước mắt tôi là đồi núi chạy dài, nhấp nhô mà ở đó quân địch đang chuẩn bị hành quân lên chiếm trận địa. Xung quanh tôi là những gương mặt đồng đội thân yêu. Chỉ như vậy thôi mà sao tôi thấy trang trọng, đầm ấm và thiêng liêng đến vậy. Vẫn hiện lên trong đầu tôi hình ảnh lá cờ đỏ búa liềm, cờ đỏ sao vàng và chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Tôi đứng nghiêm, trong lòng hồi hộp lắng nghe đồng chí Viên Đình Thực, chi ủy viên, Trung đội trưởng đọc quyết định của Đảng ủy cấp trên chuẩn y kết nạp tôi vào Đảng. Đến bây giờ tôi vẫn nhớ lời anh Thực nói “Sau gần một năm thử thách, đồng chí Biểu đã tham gia nhiều trận đánh và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Chi bộ và đơn vị đánh giá cao tinh thần chiến đấu dũng cảm của đồng chí Biểu. Đồng chí Biểu xứng đáng là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam . Trong thời gian tới còn gặp những khó khăn và gian nguy hơn, nhất là trước mắt chúng ta quân địch đang chuẩn bị tấn công lên trận địa, đồng chí Biểu hãy cố gắng phấn đấu, không sợ hy sinh, gian khổ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của người Đảng viên của Đảng”. Đọc đến đây, Trung đội trưởng nhìn tôi với đôi mắt rạng rỡ:
- Một niềm vui đến với đồng chí Biểu và cũng là niềm vui của cả khẩu đội đại liên, tôi xin thông báo: Bộ Tư Lệnh mặt trân Tây Nguyên có Quyết định số 123/QDKT ngày 10.5.1969 về việc tặng thưởng Huân chương chiến công giải phóng Hạng 3 cho đồng chí Dương Thanh Biểu, vì đã lập thành tích xuất sắc trong trận đánh Chư Đô.
Sau lời công bố quyết định của cấp trên, đến lượt tôi phát biểu. Ôi! hồi hộp quá. Đã chuẩn bị rồi mà tôi vẫn hồi hộp. Tôi đứng dậy nhìn Trung đội trưởng Viên Đình Thực và mọi người. Con tim tôi đập rộn ràng, vừa vui sướng, vừa lo lắng không hiểu phát biểu của mình sắp tới có đúng hay không. Sau tiếng pháo nổ dưới chân đồi, tôi nói như đã chuẩn bị trước:
- Kính thưa đồng chí Thủ trưởng Viên Đình Thực, thưa tất cả các đồng chí. Hôm nay tôi thật xúc động được trở thành người đảng viện, được phấn đấu dưới ngọn cờ quang vinh của đảng. Tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ, dìu dắt của các đồng chí đi trước, xin cảm ơn các đồng chí đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành tốt nhiệm vu. Nói đến đây tự nhiên cổ họng tôi bị khản. Cũng thật may lúc đó có một loạt pháo bắn gần trận địa nên không ai chú ý tới dọng khàn khàn như vịt đực của tôi. Tôi e hèm, hắng dọng rồi phát biểu tiếp:
- Đứng trước chi bộ, tôi xin thề: Nguyện suốt đời chiến đấu, hy sinh vì lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản. Tuyệt đối tin tưởng và trung thành với lý tưởng của đảng, không ngại gian khổ hy sinh, quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Xin cảm ơn chi bộ và các đồng chí.
Tôi thấy Thủ trưởng Thực gật đầu. Sau đó cả tiểu đội vỗ tay đôm đốp. Mọi người đang vỗ tay thì Trung đội trưởng khoát tay:
- Chia vui với đồng chí Biểu thế này là tốt rồi. Phải giữ bí mật. Bọn địch bắn pháo thế này là đang chuẩn bị dọn đường cho bộ binh đánh chiếm trận địa đại liên đấy. Bây giờ các đồng chí về vị trí chuẩn bị chiến đấu.
Tôi thấy cay cay sống mũi nhưng con tim đập rộn ràng, thổn thức. Thế hệ thanh niên chúng tôi ngày ấy mơ ước lớn nhất và cũng là niềm vinh dự cao nhất là được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Tôi nhớ, suốt mấy năm làm bí thư chi đoàn các lớp ở cấp 3 Nam Đàn, tôi đã cố gắng hết sức và rất hy vọng được đứng vào hàng ngũ Đảng. Ngày nhập ngũ, thầy giáo chủ nhiệm có nói, chi bộ nhà trường cũng đã xem xét việc bồi dưỡng để kết nạp tôi vào Đảng trong thời gian tới. Nhưng thời gian nhập ngũ quá nhanh nên chưa thực hiện được. Do đó, tôi vẫn coi giây phút đẹp nhất trong cuộc đời là khi được giơ cánh tay phải lên ngang đầu tuyên thệ “ nguyện suốt đời phấn đấu, hi sinh vì lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản”. Lý tưởng sống của chúng tôi rõ ràng và trong sáng lắm. Tôi cũng biết, vào Đảng là phải tiền phong, gương mẫu, là phải chịu đựng nhiều gian khổ nhưng ai cũng thiết tha phấn đấu. Vì Đảng, chúng tôi sẵn sàng hiến dâng cuộc sống của mình. Tôi đã từng chứng kiến sự anh dũng hy sinh, xả thân trong chiến đấu của nhiều đồng chí Đảng viên mà tiểu đội trưởng Vương Tử Hoàng là một ví dụ rất sinh động. Tôi cũng không ngờ, lời thề trước khi vào đảng đã cùng tôi đi hết cuộc đời.
Trưa ngày hôm đó, khẩu đội của chúng tôi bước vào một trận lửa thử mới. Máy bay trực thăng của địch đổ bộ xuống quả đồi bên cạnh và bộ binh của chúng tràn lên hòng chiếm trận địa của chúng tôi. Bọn địch dùng lực lượng này để giải tỏa cho Plây Cần đang bị vây lấn. Chúng tôi đã dùng đại liên, súng AK và lựu đạn chiến đấu, đánh trả quyết liệt. Nhiều đợt tiến quân của địch hòng chiếm giũ trận địa đại liên đều bị đánh bật. Lần này được cử làm xạ thủ số 1 của khẩu đại liên nên tôi bắn cũng hơi nhiều. Có lần, Trung đội trưởng Viên Đình Thực nhắc nhở là phải tiết kiệm đạn. Đến chiều, máy bay địch lại ném bom bắn phá trận địa, sau đó pháo từ Tân Cảnh, Đăc Tô bắn cấp tập vào quả đồi của trận địa. Công sự trống trãi, cửa hầm xê dịch…Chúng tôi vừa củng cố công sự vừa ngụy trang và chuẩn bị tiếp tục chiến đấu. Sau đợt bom, pháo, bọn lính ngụy từng đàn lăm lăm súng AR15 tiến lên trận địa. Trung đội trưởng Thực vừa dứt lời hạ lệnh, khẩu đại liên rung lên, tiếng nổ xé toạc không khí, làm cho địch ngã xuống hàng loạt. Cuối cùng, chúng bỏ lại nhiều xác chết nhưng không thể chiếm trận địa đại liên được.
Qua một ngày quần nhau chí tử, trận địa đại liên của chúng tôi vẫn được giữ vững. Anh em ai nấy đều mệt nhoài người, mặt mày nhem nhuốc khói đạn. Đêm dần buông, địch đã rút quân sang quẩ đồi bên cạnh, anh em tranh thủ ăn uống và sửa sang lại trận địa, súng ống. Gần khuya, tôi được phân công cảnh giới. Sương núi rơi xuống lành lạnh, tiếng chim đi ăn đêm kêu khao khao, lẻ loi ngang trời, nghe mà chơi vơi, buồn tẻ quá. Một mình bồng súng AK đứng gác dưới sao trời, các giác quan căng ra để nhận biết những động tĩnh xung quanh. Sau khi được anh Hoàng Ngọc Loan thay gác, tôi trở về hầm, thao thức, bâng khuâng, có lẽ vì xúc động với niềm vui được đứng vào hàng ngũ đảng viên nên cứ trằn trọc không sao chợp mắt được. Trong đêm khuya, mặc cho những tiếng pháo của địch bắn cầm canh, tôi nôn nao nhớ đến người thân nơi hậu phương xa xôi. Ở đó, tôi thì thầm như khẽ nói với cha: “Cha ơi, thế là con đã làm theo đúng như lời cha dặn, con đã được kết nạp Đảng. Mơ ước này con đã từng thổ lộ với Cha từ những ngày con còn học cấp III, nay đã trở thành hiện thực rồi Cha ạ. Con thấy tự hào và vinh dự lắm. Và con cũng thấy trách nhiệm trước mắt còn nặng nề, lớn lao hơn, nhất là phía trước quả đồi kia, quân địch đang chuẩn bị đánh chiếm trận địa đại liên. Chỉ buồn là Cha không được sống trên cõi đời nữa để chia sẻ niềm vui lớn lao này của con, ngày con vào Đảng thì Cha đã không còn nữa, nhưng con sẽ cố gắng phấn đấu, không sợ gian khổ, hy sinh như lời thề của con trước chi bộ.” Tôi cũng thầm báo cho các chị, các em và với em Thoa nữa về sự kiện tôi đã được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Tôi thì thào với Thoa “…Em ơi, khi biết tin anh vào Đảng, chắc em cũng vui và vinh dự lắm phải không? Chắc em nhớ ngày còn học cấp III, có lần hai anh em mình ngồi cùng nhau ôn bài, anh đã nói với em rằng vào Đảng là nguyện vọng thiết tha nhất của đời anh. Bây giờ nguyện vọng đó đã trở thành hiện thực rồi, đó là nguyện vọng của anh và cũng là nguyện vọng của em nữa, đúng không? Giờ này chắc em đang ngủ ngon và biết đâu đang thao thức lo lắng cho anh thì phải, còn anh thì nhớ em vô cùng. Biết tin anh được vào Đảng thế nào em cũng lại kể cho mẹ nghe và rồi mẹ em vui nhưng lại thêm lo lắng cho anh. Anh chỉ mong sao chiến tranh nhanh kết thúc để anh được trở về quê hương mình, xum họp với gia đình và được gần bên em. Em ơi. Bây giờ. Bây giờ anh chỉ ao ước một điều, được về bên em, bên dòng sông Lam xanh biếc và nặng tình, nặng nghĩa với bao đời”. Bây giờ anh chỉ ao ước một điều, được về bên em, bên dòng sông Lam xanh biếc và nặng tình, nặng nghĩa với bao đời”
Lòng tôi rạo rực, phấn chấn lạ thường. Thấy vui và chỉ muốn đem niềm vui ấy chia sẻ với những người thân ở quê nhà nhưng đường xá xa xôi, cách trở. Muốn báo tin vui ấy cho gia đình và cho em nhưng lúc này thì không thể, tôi phải tập trung vào trận chiến đấu. Bà con quê hương biết tin này, chắc cũng vui lắm. Tối đó, tôi thức trắng như đêm tôi chuẩn bị nhập ngũ. Cả đêm thức mà hôm sau tôi vẫn thấy khỏe khoắn, tỉnh táo vô cùng. Đảng đã tiếp thêm cho tôi sinh khí và sức lực để tiếp tục đối chọi với quân thù.
Từ đó cho đến ngày 20 tháng 6 năm 1969 khẩu đội đại liên của chúng tôi chiến đấu liên tục nhiều ngày và đã bẻ gẫy nhiều cuộc phản kích của địch nống ra từ Plây Cần. Trận địa được giữ vững, địch liên tiếp bị bộ đội ta vây đánh. Đây cũng là những trận đánh mở màn của những tháng đầu mùa mưa Tây Nguyên. Mưa cao nguyên tầm tã, dầm dề. Trận địa lầy lội nhớp nháp, trơn tuột làm cho những trận đánh vận động hay đánh vây lấn thật vất vả. Những bộ quần áo lính chúng tôi mùa khô thì đẫm mồ hôi, mùa mưa thì đầy bùn đất, lại ướt nhe ướt nhét, mong một ngày nắng mà chẳng hết mưa.
Đến cuối tháng 6, trung đoàn 28 chúng tôi đã hình thành thế trận bao vây chia cắt Tiểu đoàn 3, trung đoàn 42 của địch. Sau bốn mươi lăm ngày đêm chiến đấu ngoan cường, khẩu đội của chúng tôi đã góp phần xứng đáng vào chiến công chung của Trung đoàn 28. Lịch sử trung đoàn sau này ghi lại rằng: “Trung đoàn 28 đã đánh 95 trận (31 trận vận động và đánh giải tỏa, 10 trận tập kích, 1 trận đặc công, một trận đánh địch phản kích, 3 trận phục kích, 14 trận đánh máy bay, 33 trận pháo kích, diệt 1915 tên, bắt 13 tên tù binh, phá hủy 97 xe các loại, phá hủy và bắn rơi 52 máy bay… trung đoàn đã đánh quỵ, đánh thất bại 6 tiểu đoàn bộ binh và cơ giới địch”. Những thành tích ấy là niềm vui của anh em chúng tôi trong mỗi trận đấu. Chúng tôi có dịp nhìn lại thành quả và phấn đấu cao hơn trong những thế trận tiếp theo.
Vào thời gian này, Tây Nguyên xuất hiện những khó khăn mới, thiếu lương thực trầm trọng. Đói. Những chiến sĩ ở tuyến trước như chúng tôi tiêu chuẩn chỉ có bốn lạng gạo trong một ngày, còn ai ở tuyến sau thì chỉ có một lạng rưỡi. Sức trai trẻ, đang tuổi ăn tuổi ngủ, đang ngày đêm hành quân, đào hầm, đánh trả quân địch rồi khênh thương binh, tử sĩ mà chỉ có bốn lạng gạo thì chẳng thấm vào đâu. Điều này không nói thêm nhiều chắc ai cũng biết là chúng tôi phải chịu đói thế nào. Chiến đấu ngày càng gian nan, cuộc sống khổ cực vô cùng, cơn đói cứ luôn rình rập, đeo đuổi bộ đội. Chẳng có con đường nào khác, chúng tôi vừa động viên nhau chịu đựng, vừa tìm cách khắc phục, san sẻ cho nhau từng miếng cơm manh áo, sợ nhất là đồng đội của mình bị ốm, hạt cơm chấm muối nuốt không trôi. Chúng tôi cắt cử nhau đi lấy măng rừng, rau tàu bay, rau môn thục, mộc nhĩ để ăn thêm cho đỡ đói. Lính chúng tôi hồi đó chủ yếu ăn rau, suốt tuần suốt tháng chỉ co rau và rau. Trong khó khăn đó, lính chúng tôi cũng có nhiều cải tiến trong bữa ăn. Chúng tôi chế biến sắn ra đủ loại lương thực, củ sắn được nạo thành từng sợi như bún để hấp và độn lẫn cơm ăn, ngọn sắn đem xào hoặc nấu canh, đôi khi chúng tôi còn mài sắn ra thành bột để làm bánh.
Không chỉ có trong chiến đấu mà trong lúc xây dựng, cũng cố đơn vị, bộ đội Tây Nguyên cũng phải khắc phục thiếu cơm, thiếu gạo. Đặc điểm chiến trường Tây Nguyên là thế. Trong hoàn cảnh ấy, đòi hỏi mỗi đảng viên như chúng tôi phải có tính sự tiền phong, gương mẫu để ăn rau rừng, nhường gạo cho các đồng chí bị thương, bị ốm, tuyệt đối không được kêu ca phàn nàn trước quần chúng.
Thời gian này tôi được bổ nhiệm chức vụ Tiểu đội phó. Đây là chức vụ thấp nhất trong bộ đội. Lính chúng tôi gọi là chức “cùng đinh”, vẫn phải gác, phải làm bất cứ nhiệm vụ gì của người lính.. Tôi vừa trực chiến đấu, vừa đi hái thêm rau rừng để độn vào bữa ăn cho đỡ lưng lẻo bụng. May thay, gần nơi chúng tôi trực chiến đấu có rau tàu bay, môn thục và cả măng rừng nữa. Rau tàu bay có mùi hăng hắc, môn thục nấu không khéo ăn vào còn bị ngứa họng, măng rừng xơ xáp ăn mãi cũng chán nhưng có nó vẫn dễ chịu hơn là để bụng đói cồn cào. Ngày đầu tiên đặt chân đến Tây Nguyên, chúng tôi cũng đã được ăn những ngọn măng rừng, bộ đội vẫn trêu nhau “ăn măng để quen với rừng”. Khổ nhất và thương nhất vẫn là bạn lính bị ốm, bị sốt rét. Đã suy dinh dưỡng lại bị cơn sốt hành hạ, thiếu cái ăn, thiếu thuốc men nên cơ thể bị sút nhanh lắm. Da vàng lại càng vàng. Mặt hốc hác, tái xanh như lá cây. Nhiều đồng chí sốt đến độ to gan và lách sa, mắt mờ, tai ù, anh em dành gạo nấu cháo cho những đồng chí ốm. Đói nên lúc nào cũng thèm cơm. Cứ nghĩ đến bát cơm gạo mới nóng hổi thơm phức ăn với tép đồng quê hay bát canh cua nấu canh mùng tơi mềm ruột, dằm thêm đôi quả cà pháo muối xổi giòn tan. Nghĩ đến đây chúng tôi chỉ biết nuốt nước bọt. Tôi cứ tưởng tượng đến ngày trở về quê, chắc ai cũng kêu mình xanh xao, và rồi được ăn những thứ ngon miệng và ngủ những giấc ngon lành. Không chỉ có trong chiến đấu mà trong lúc xây dựng, cũng cố đơn vị, nhất là khắc phục thiếu cơm, thiếu gạo thế này cũng đòi hỏi sự tiền phong, gương mẫu của người đảng viên. Người đảng viên như chúng tôi phải chịu đói trước để nhường gạo cho đồng chí ốm. Mình khỏe thì ăn sắn, rau rừng, không được kêu ca phàn nàn trước quần chúng.
Kết thúc chiến dịch Plây Cần, đơn vị chúng tôi được lệnh rút về hậu cứ Đăkson. Nhiệm vụ bây giờ là vừa củng cố đơn vị, vừa tăng gia, huấn luyện và sản xuất. Những người lính chiến đấu chúng tôi lăn lốc nơi trận mạc nay cần cù cầm rựa, cầm cuốc phát nương, làm rẫy trồng sắn, trồng ngô, rau… để đảm bảo đời sống của mình trong lúc nguồn lương thực đang dần dần vơi cạn, chiến tranh thì cứ triền miên kéo dài. Hầu như, ngày đó, nơi nào có bộ đội thì ở đó đều dấy lên khí thế tăng gia sản xuất. Bộ đội đi đến đâu thì các nương rẫy mọc lên đến đó. Mục tiêu quan trọng trong trận đánh này là hạn chế cái đói, cải thiện đời sống cho bộ đội, nhằm chuẩn bị sức lực cho sự bám trụ lâu dài với Tây Nguyên. Dưới bàn tay chai sạn của người lính, chỉ sau một thời gian nhiều nương ngô, nương sắn, vườn rau mọc lên xanh tốt bạt ngàn. Đất đỏ bazan thấm mồ hôi chiến sĩ làm nên những mùa màng xanh tốt. Làm ra lương thực, chúng tôi giải quyết được một phần cái ăn trước mắt, lính tráng cũng đỡ đói ăn. Nhưng điều đáng nói hơn chính là bản lĩnh, quyết tâm, tính sáng tạo của người chiến sĩ Tây Nguyên. Những nơi nào có bàn tay các anh là nơi đó có sức sống mãnh liệt. Nếu như những người lính không có tinh thần chịu đựng gian khổ, chiến đấu dũng cảm và sáng tạo thì làm sao có thể thắng được giặc Mỹ xâm lược. Lịch sử sư đoàn 10 của chúng tôi có đoạn ghi lại những ngày này:
“Những nương sắn, bãi ngô mọc lên xanh ngát dưới bom đạn khốc liệt của quân giặc ở miền núi rừng Tây Nguyên nói lên đức tính cần cù, trí thông minh, sáng tạo và nghị lực phi thường của bộ đội ta quyết đạp bằng mọi khó khăn trở ngại để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ”.
Đang vừa sản xuất, vừa huấn luyện thì chúng tôi được lệnh vào Đắc Lắc, Phước Long để vận chuyển gạo từ Campuchia ra cho Tây Nguyên. Bộ đội phải mở gần 200km đường để vận chuyển. Ngày ngày, chúng tôi mải miết gùi gạo ra phía bắc Tây Nguyên. Đường đi khúc khuỷu gập ghềnh, có đoạn lên dốc xuống dốc, có đoạn đường trơn, chỗ lồi chỗ lõm. Đi bộ đã khó, vận chuyển gạo trong mùa mưa lại càng khó khăn hơn. Do xác định được nhiệm vụ vận tải lương thực để chuẩn bị phục vụ chiến dịch vào mùa khô sắp tới nên đồng chí nào cũng quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ.
Quân Mỹ nắm được sự có mặt của khối chủ lực Tây Nguyên ở vùng núi Phước Long. Chúng đã sử dụng máy bay chiến lược B52 mở chiến dịch ném bom rải thảm trên suốt cung đường vận chuyển của bộ đội ta, một số cán bộ và chiến sĩ đã hy sinh, một số người bị thương. Hạt gạo cũng như thấm máu của các chiến sĩ. Tuy vậy bộ đội ta vẫn không hề nao núng, vừa chuyển gạo, vừa tập đánh địch trong công sự vững chắc.
Đúng thời điểm ấy, ngày 3 – 9 – 1969 mọi người nhận được tin đau đớn nhất: Bác Hồ ra đi ở tuổi 79. Trong đầu tôi còn vang lên lời kêu gọi của Bác ngày 20 tháng 7 năm 1969, mới cách đây chưa đầy hai tháng: “Ý chí phải thật kiên quyết, kế hoạch phải thật tỉ mỉ; kiểm tra phải thật kĩ càng; phối hợp phải thật ăn khớp; chấp hành phải thật chu đáo; cán bộ phải thật gương mẫu; bí mật phải giữ triệt để” Trong lời kêu gọi của Bác còn có đoạn: “Quân và dân cả nước ta, triệu người như một nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, không sợ hi sinh, không sợ gian khổ, quyết kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến quyết chiến quyết thắng, đánh cho quân Mỹ phải rút hết sạch, đánh cho Ngụy quân và Ngụy quyền sụp đổ hết, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà”
Một cái tang lớn mà đất nước phải gánh chịu. Chúng tôi lặng lẽ khóc thương Bác giữa bạt ngàn Tây Nguyên. Có người lính ôm cây rừng mà nức nở. Suốt cả ngày hôm đó, không khí của cả đơn vị như lắng lại. Bữa cơm pha lẫn nước mắt nghẹn ngào, cổ họng tôi nghẹn đắng lại không sao nuốt nổi. Cứ nghĩ đến Bác là nước mắt lại trào ra. Tôi nhớ lại lần được Cha dẫn về làng Sen thăm nhà Bác. Tôi nhớ lại mái nhà tranh nơi Bác sinh ra. Vồng khoai lang. Hàng cau. Cổng râm bụt. Chiếc võng đay. Khung cửi. Tất cả đều đẫm nước mắt hiện lên trước mặt tôi. Chúng tôi đau buốt khi nghe Tố Hữu nghẹn ngào đọc bài thơ “Bác ơi” trên Đài tiếng nói Việt Nam :
Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa
Chiều nay con chạy về thăm Bác
Ướt lạnh vườn cau, mấy gốc dừa
Bác là tấm gương cho bộ đội chúng tôi noi theo. Nói sao cho hết tình cảm của những người chiến sĩ, của nhân dân đối với Bác. Lính chúng tôi cảm thấy mình có lỗi với Bác vì chưa đánh thắng giặc để miền Nam sớm được giải phóng, đất nước sớm thống nhất, đón Bác vào thăm.
Chiều hôm đó, ở Tây Nguyên, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên tổ chức trọng thể lễ truy điệu Bác. Bộ đội chúng tôi cùng kiên quyết thực hiện tốt lời dạy của Bác: “Đoàn kết, chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi”, sẵn sàng đón nhận nhiệm vụ của Đảng và nhân dân giao cho. Giữa rừng già Tây Nguyên, chúng tôi nhẩm đọc bài điếu bằng thơ, khóc Bác của Tố Hữu. Tôi còn ghi bài thơ “Bác ơi” vào trong sổ tay và nhiều đêm mang ra đọc một mình. Tôi càng tự hào về quê hương Nam Đàn đã sinh ra một con người vĩ đại và vô cùng giản dị như Hồ Chí Minh. Và, thật đúng như tên một bài hát thời ấy “Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân”. Hình ảnh Bác vẫn như tỏa sáng và vẫy gọi chiến sĩ, đồng bào tiến lên giành những chiến công mới vang dội hơn. Lòng kính yêu, tự hào về Bác đã đồng hành cùng tôi suốt những tháng năm cực kỳ gian khổ ấy- nơi vùng đất Tây Nguyên bao la ngút ngàn gió núi…
*
* *
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ tại Bu-Prăng, Đức Lập, Trung đoàn 28 chúng tôi nhận lệnh tiếp tục hành quân ra Kon Tum. Hình ảnh bộ đội B3 đánh giặc giỏi, gùi gạo khỏe, vừa sản xuất vừa chiến đấu tốt đã để lại những ấn tượng cao đẹp cho đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Đây là giai đoạn chúng tôi vừa huấn luyện quân sự nâng cao trình độ chiến đấu vừa tích cực phát nương phát rẫy, trồng sắn, trồng ngô bởi các kho gạo dự trữ lúc này đã hết. Theo chỉ đạo của tiểu đoàn, bộ phận đại liên ngoài việc học khoa mục đánh máy bay, bộ binh vận động còn học thêm kĩ thuật bao vây, đánh lấn. Cánh lính chúng tôi gọi tắt kĩ chiến thuật mới này là đánh vây lấn. Bộ phận đại liên có nhiệm vụ bắn máy bay, bắn vào lô cốt đầu cầu, đánh bộ binh giặc để nống ra bảo vệ cửa mở, bảo vệ quân ta tấn công địch. Bộ đội ta nêu cao tinh thần tiến công địch “đánh đêm không xong thì trụ lại đánh ngày, đánh một ngày chưa xong thì đánh tiếp trong nhiều ngày”, cho tới khi dứt điểm.
Trung đội đại liên được tăng cường một số chiến sĩ trẻ và được bổ sung súng đạn. Tôi không còn là anh lính tò te nữa mà đã được coi là lính cựu dạn dày trận mạc. Trong đơn vị, số người nhập ngũ cùng ngày như tôi ít dần, thay vào đó là lính trẻ. Hàng ngày chúng tôi được huấn luyện chiến thuật đánh vây lấn, đánh cơ động, kỹ thuật làm công sự, cách ngụy trang trận địa giữa đất trống đồi trọc. Ngoài ra, chúng tôi học cách tiềm nhập trận địa địch, học cả cách đeo bi đông súng đạn, chuẩn bị sẵn các cây gỗ vừa làm gậy hành quân vừa làm các xà đỡ công sự. Xem cung cách huấn luyện bài bản và nhiều nội dung như thế, cánh lính làm tham mưu còn đoán rằng chiến dịch sắp tới sẽ ác liệt đây.
Cuối tháng 2 năm 1970, trung đội đại liên chúng tôi nhận mệnh lệnh chuẩn bị chiến dịch vây lấn Đắc Siêng nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực cơ động của địch. Tuy lúc này đơn vị đã được tăng cường quân nhưng so với yêu cầu thì còn thiếu. Các chiến sĩ mới chưa được huấn luyện cách đánh vây lấn. Lương thực, thực phẩm còn khan hiếm nên sức khỏe bộ đội giảm sút nghiêm trọng. Mỗi người theo tiêu chuẩn được một lạng gạo một ngày. Anh em ở lâu trong rừng, bị bệnh sốt rét khá nhiều. Số gạo dự trữ và khẩu phần chủ yếu dành để nấu cháo, bồi dưỡng cho người ốm. Những đồng chí khỏe thì ăn sắn và rau rừng, môn thục là chính. Vì ăn sắn trường kì thiếu chất dinh dưỡng nên ai cũng đuối sức, lúc hành quân leo dốc, người nào cũng mệt mỏi bơ phờ.
Vào thời gian này, tôi được bổ nhiệm trung đội phó, phụ trách một khẩu đại liên tham gia chiến dịch. Mỗi ngày thêm một nhiệm vụ, trọng trách được giao ngày một lớn lao hơn. Không chỉ có trách nhiệm với cuộc chiến đấu mà ngay cả đời sống anh em tôi cũng phải bao quát, theo dõi sát sao. Nhìn anh em ốm yếu, tôi thương và lo lắng lắm. Sức vóc thế này, không biết vào trận có trụ vững được không? Khẩu phần ăn thì chỉ có vậy mà thôi. Tôi bàn với anh nuôi tìm cách xoay sở, chịu khó chế biến các món ăn, dù chỉ là những bữa canh rau và một số loại củ kiếm được. Thời gian rảnh thì chế biến lương thực thực phẩm. Sắn được mài ra bột để làm bánh hay thái lát mỏng để xào mỡ, dễ ăn hơn.
Một hôm trời vừa mưa xong, tôi và anh nuôi xuống suối mò cua. Lá cây bên đường đậm đà một màu xanh xẫm. Cây non thì xanh mướt, có cả những mùi thơm thoang thoảng của những loài hoa gì đó mà tôi không thể nhận biết được. Ở trong rừng rậm này, thi thoảng nhìn thấy những cánh hoa dại đáng yêu, cứ lung lay trong gió, đến tên gọi cũng không biết. Tôi nhìn thấy tổ ong mật và gọi anh nuôi, anh nuôi dặn “tránh xa nó ra, nó mà đốt thì phải lên vài cân”. Vẫn biết là không được sờ vào tổ của nó nhưng tôi có dịp được ngắm nghía những con ong mật đi kiếm nhụy hoa về làm mật. Hai bên sườn, dưới đôi cánh đang đập rì rì của chúng là những nhụy hoa kiếm được. Trong cánh rừng này, có biết bao nhiêu là loài cây, phần lớn cây nào cũng có hoa. Bởi vậy, nhìn những chú ong nặc nè cắp nhụy hoa trông đáng yêu lắm, có nhụy màu vàng nhạt, có cái vàng đậm, có cái chuyển sang màu thậm… Chúng làm mật một cách cần mẫn và vô cùng chăm chỉ. Ban nãy trời mưa, có lẽ chúng cũng trú mưa, giờ mới bay về tổ. Tôi muốn ngắm nhìn chúng lâu hơn nhưng chợt nhớ đến anh em ở nhà, trông đợi bữa cơm chiều nên lại khẩn trương cùng anh nuôi lội suối. Anh nuôi nhắc tôi đi cẩn thận vì những chỗ cỏ mọc, phải để ý kẻo bên dưới là hủm sâu. Từ dưới suối nhìn lên cao, chỉ thấy mây, thấy trời, gần hơn là rừng với những tán cây xanh cao lớn rất ấn tượng. Đứng đây nhìn xuống chân núi, tôi không tưởng tượng được rằng mình đang tọa lạc trên một vị trí cao đến thế. Tất cả cao ngút ngàn. Những chiếc lá vàng bay vèo xuống nước rồi lại lững lờ trôi yểu điệu và duyên dáng làm sao. Thiên nhiên thật hấp dẫn. Tôi nhìn sâu vào phía hang, màu rêu xanh xám và tối hơn. Tôi vui sướng vì sẽ kiếm được những con vật tuy nhỏ bé nhưng khiến cho bữa ăn thêm đậm đà. Suối nhiều đá, chúng tôi vừa lội bì bỏm, vừa hướng về các kẽ hang để lật từng hòn đá, tóm những chú cua tám cẳng hai càng nấp trong đó. Tôi phát hiện một chú cua đang bò ra từ hốc đá, vội vàng chụp lấy thì cha mẹ ơi, nó cắn tôi đau thấu trời. Tôi kêu ré lên rồi nghiến răng chịu, anh Nuôi hốt hoảng lại gần tôi. Té ra không phải là cua mà là bọ cạp. Bọ cạp cắn, tuy không chết nhưng đau thấy ông bà, ông vải. Tôi vác tay chạy vội về doanh trại. Từ bé đã phải nai lưng mò cua bắt ốc, chẳng bao giờ bị con vật nào cắn đến độ đau buốt như thế. Thần hồn thần tính để đâu mà nhìn bò cạp hóa cua, chán mớ đời. Chuyện đi bắt cua bị bọ cạp cắn của tôi trở thành chuyện vui của cả trung đội. *
* *
Đắc Siêng là cứ điểm biệt kích của địch cách thị trấn Tân Cảnh , Kon tum ba mươi cây số. Cứ điểm này có ba đại đội lính biệt kích được các cố vấn Mỹ chỉ huy, bố trí hỏa lực dày đặc và được máy bay, pháo lớn thường xuyên chi viện bảo vệ.
Tối ngày 31 tháng 3 năm 1970 chúng tôi lặng lẽ hành quân về hướng Đắc Siêng. Đó là một buổi tối sao trời mọc chi chít, gió Nam hiu hiu thổi. Nếu như không có chiến tranh thì đêm nay là một đêm đẹp trời, thoáng đãng và thơ mộng. Dưới ánh sao đêm, đôi lứa cầm tay nhau đi trong đêm cao nguyên đầy gió. Gió Tây Nguyên mang trong mình hơi thở của những cánh rừng già bí ẩn, những đồng đất bazan bao la, những con thác chảy từ trời xuống và không thể không nói tới âm hưởng trầm hùng của những bài khan, những bản trường ca kể mãi không cạn. Bộ đội chúng tôi đi dưới ánh trăng thành hàng dài lúc lên cao, xuống thấp, lúc uốn lượn. Balô đồng chí nào cũng nặng trĩu lương thực, vũ khí. Anh trăng trải dài trên rừng, lá cây ánh lên thứ ánh sáng mướt mát, lung linh huyền ảo. Những lá cây ven đường như đang vẫy chào đoàn quân. Đi trong đêm trăng, thỉnh thoảng chúng tôi vẫn nghe được âm thanh của những con vật trong rừng tìm bầy khắc khoải. Tiếng gà rừng gáy “kéc ke”, ngắn ngủn không như gà nhà.
Chẳng hiểu vì sao đang trên đường hành quân chiếm lĩnh trận địa, tôi lại chợt nhớ đến Thoa… Giờ này em còn thức không, có còn ngồi bên bếp lửa bập bùng ánh lên đôi mắt sáng trong nhớ anh, đôi mắt của sự xa nhớ đợi chờ... Tôi còn tưởng tượng ra em đang ngồi học dưới ánh đèn khuya ở lớp học, mặt lem luốc muội khói đen của đèn dầu nhưng rất dễ thương. Em ngồi dưới ánh đèn dầu, còn anh đang hành quân dưới ánh trăng sáng ngời. Những đêm hành quân như thế này, chỉ có nghĩ về miền quê, nghĩ về em, về người thân mới vợi đi những mệt nhọc. Tôi nhớ tới cái đêm lớp tôi và em đi đào hầm phòng không hai bên đường quốc lộ gần cầu Mượu. Có đêm trăng sáng vằng vặc, nhìn thật rõ mặt nhau, đứa nào mồ hôi mồ kê cũng nhễ nhãi nhưng vừa làm vừa cười nói râm ran. Anh vừa đào hầm vừa để ý đến em. Anh không thể nào quên được câu em hò rất hay trong cái đêm trăng sáng ấy
… ơ…hò…thuyền than lại đậu bến…ơ…ơ…than. Thấy anh vất vả cơ hàn em thương…ơ…ơ…hò. Anh cũng còn nhớ trong đám con trai, hình như là Song Toàn- phó Bí thư chi đoàn hò đáp lại cũng hay lắm:
…ơ…hò…chim khôn ăn trái nhãn lồng… Gái khôn gánh việc cho chồng tòng quân…ơ…ơ…hò…
Bây giờ cũng là một đêm trăng thanh gió mát em ạ. Nhưng đêm trăng này lại không phải ở quê mình, anh đang ở rất xa em, xa lắm. Anh đang cùng bộ đội hành quân chiếm lĩnh trận địa, do đó bí mật là yêu cầu cao nhất đối với người lính. Em đã từng nghe ai nói chưa, giữ được bí mật bất ngờ là đã giành hai phần ba chiến thắng. Anh thèm được cất lên câu hò mà em đã từng hát rất hay trong đêm ấy nhưng lúc này thì hoàn toàn không được. Các anh đang lặng lẽ bước đi trong ánh trăng tràn ngập mát rượi, không được nói chuyện, không được phát ra tiếng động, không được hút thuốc. Nếu bọn địch phát hiện ra đốm lửa, hoặc mùi thuốc lá hay tiếng người chắc chắn chúng sẽ trút bão đạn ngay lập tức. Những ngày vừa qua và đêm nay bọn anh sống theo kiểu đi không dấu, nấu không khói, nói không to, ho không tiếng…
Hàng rào cứ điểm của giặc đã hiện ra trước mắt. Tôi không được phép mơ mộng và hồi tưởng về em nữa. Tiếng thuyết minh phim từ trong đồn giặc cứ vọng ra nghe rõ mồn một. Cả đoàn quân lầm lũi đi về phía cứ điểm. Ai cũng cẩn trọng, mọi cái phải thật nhẹ nhàng thì mới không bị phát hiện. Không còn cách nào khác, bộ đội ta phải vượt qua được cả những rào cản như vậy mới tấn công vào sâu trận địa hơn, vừa quây vừa lấn quân địch, thu nhỏ vòng vây chiến đấu.
Vào thời gian này tôi được bổ nhiệm làm trung đội phó và trực tiếp chỉ huy khẩu đại liên do anh Hoàng Ngọc Loan làm tiểu đội trưởng. Nhiệm vụ của khẩu đại liên là phối thuộc trong đội hình đại đội thuộc tiểu đoàn 1 đột kích từ hướng tây nam vào cứ điểm. Cụ thể là bắn diệt lô cốt đầu cầu, bắn máy bay, bắn bộ binh để bảo vệ cho đại đội 1 vây lấn, cắt rào, mở cửa xông vào đánh chiếm cứ điểm địch. Tất cả dường như phải phối hợp ăn ý và chuẩn khớp với nhau, giống như đầu tàu không thể thiếu người lái. Tôi liên tưởng đến cảnh tiếng súng của quân ta dội vang lên là tất cả đã sẵn sàng hừng hực trong tư thế chiến đấu. Thế tiến công từ bên này vang lên sau những tiếng súng thì phía bên kia cũng vậy, tất cả đều như vậy. Hình ảnh của tất cả mọi người tạo nên lòng dũng cảm và trái tim yêu nước mãnh liệt ở mỗi người chiến sĩ khiến cho ai cũng vững tay súng, bước chân tiến công rắn rỏi hơn.
0 giờ ngày 31.3.1970, chúng tôi chiếm lĩnh xong trận địa, khẩu đại liên được bố trí sát hàng rào cứ điểm cạnh cửa mở của đại đội 1. Tôi tranh thủ hội ý với anh Hà Văn Nhật, đại đội trưởng đại đội 1. Anh Nhật là người Mường, quê ở Thanh Hóa. Anh là một cán bộ gan góc, dũng cảm, rất gần gũi với anh em, đặc biệt là có trí nhớ tốt. Tôi được nghe anh kể về bản làng quê hương anh, về những người nói tiếng Kinh chưa sõi nhưng khi thấy đất nước có chiến tranh thì đồng lòng đồng sức động viên bà con dân bản đứng dậy cùng với dân tộc đánh giặc. Anh Nhật còn dạy cho tôi biết một số tiếng Mường, anh kể những phong tục tập quán và lễ hội với những nét văn hóa rất ấn tượng của dân tộc mình mà không phải nơi nào cũng có được. Lúc anh Nhật làm trung đội trưởng trung đội đại liên thuộc đại đội 4, tiểu đoàn 1 thì tôi là tiểu đội trưởng. Khi anh Nhật được điều sang làm đại đội phó, rồi đại đội trưởng đại đội 1 thì tôi được giữ chức vụ trung đội phó trung đội đại liên. Vì vậy trong trận chiến đấu này, tuy khẩu đại liên của chúng tôi tiếng là đơn vị hỏa lực phối thuộc nhưng anh Nhật rất hiểu nhau, mặc dù thời gian rất ngắn ngủi. Anh Nhật nhìn tôi và nhắc lại nội dung hợp đồng tác chiến:
- Khi đại đội 1 mở cửa xong sẽ đánh chiếm lô cốt đầu cầu. Khẩu đại liên sẽ bắn kiềm chế các ổ hỏa lực của địch để chi viện cho đại đội 1. Nếu bộ binh địch từ hướng quốc lộ đánh vào cửa mở của C1 thì đại liên sẽ nhả đạn tiêu diệt chúng. Trong màn đêm bàng bạc, tôi nắm tay anh thật chặt:
- Nhất trí. Về phương án này thì khẩu đại liên đã hoàn chỉnh rồi anh a. Chúng tôi vừa giá súng vừa lấy đường ngắm vào lô cốt đầu cầu rất tốt, không có vật cản nào cả. Nghe tôi nói anh gật đầu và lắc mạnh tay tôi như hạ quyết tâm cùng phối hợp chiến đấu.
Thực ra phương án tác chiến này, chúng tôi đã thảo luận bàn bạc kĩ trên sa bàn ở sở chỉ huy của trung đoàn. Anh Nhật nhắc tôi cũng là để xác định thêm quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ chiến đấu. Mặc dù biết trong chiến đấu, việc hoàn thành tốt nhiệm vụ luôn được tôi chú ý. Nhưng có thêm lời động viên của anh Nhật, tôi thấy mình tự tin và cần cố gắng nhiều hơn nữa.
Trao đổi xong, anh Nhật trở về đại đội chuẩn bị chỉ huy anh em cắt hàng rào. Tôi đi theo anh để lên thăm đơn vị C1. Chiến sĩ trong đại đội 1 đang trong tư thế sẵn sàng vào trận. Tôi gặp Đức, người đồng hương, đồng khóa, đồng ngũ với tôi đang chuẩn bị thủ pháo và lựu đạn đầy người. Cái anh chàng đẹp trai, hay hát này ôm chầm lấy tôi như lâu ngày lắm mới gặp nhau. Đức ôm chặt lấy tôi như anh em lâu ngày không gặp. Chiếc bi đông nước mà Đức đeo ở thắt lưng thúc vào bụng làm tôi cộm lên cả người. Thực ta tôi và Đức ở cùng tiểu đoàn, chỉ khác đại đội. Tôi còn nhớ cái hôm gặp nhau ở tiểu đoàn chuẩn bị cho chiến dịch này, Đức nắm chặt tay tôi, nói:
- Đánh Đắc Siêng lần này chắc ác liệt lắm đây, Biểu ạ. Không biết bọn mình có vượt qua được không?. Từ “vượt qua”, Đức nói ở đây không chỉ mang ý nghĩa hoàn thành tốt nhiệm vụ mà còn có ý ám chỉ có thể là sự hy sinh, mất mát. Với người lính trận như chúng tôi, sự sống chết làm sao mà nói trước được. Ngã xuống bởi bom đạn của giặc là chuyện thường tình. Nghe Đức nói, tôi cũng nao lòng. Không dấu nổi bùi ngùi, tôi nhìn Đức nói:
- Chúng mình sẽ cùng nhau cố gắng… mong rằng mình sẽ được gặp nhau trong nụ cười như thế này…nhưng nếu đứa nào gặp điều gì không may thì đứa còn lại nhớ tìm về nhà báo cho gia đình biết. Hai đứa tôi chẳng ai nói thêm câu nào nữa nhưng có những giây phút lặng lẽ nhìn vào mắt nhau trong hoàn cảnh này chính là sự động viên nhau và gửi gắm lớn lao. Rồi biết đâu, cả hai chúng tôi cùng trở về, ôm nhau trong niềm vui…và cũng biết đâu, cả hai chúng tôi, chẳng có ai trở về, cả hai đứa cùng nằm lại nơi chiến trường ác liệt và tàn khốc này… Tôi nghĩ đến điều đó nhưng không hề nao núng, không hề sợ hãi. Bây giờ trước cửa mở, khi chỉ còn mấy giờ nữa thôi trận đánh sẽ bắt đầu, những người trải qua không ít trận chiến ác liệt như tôi và Đức ai cùng thấm thía rằng sự sống với người lính là mong manh vô cùng, may rủi đều có, đạn bom tránh mình chứ mình làm sao mà tránh được đạn bom. Tôi nắm chặt tay Đức:
- Cẩn thận nhé, mình về đây. Tôi, và có lẽ cả Đức muốn nói nhiều lắm nhưng mọi điều nói ra lúc đó chỉ làm cho chúng tôi yếu lòng, chỉ căn dặn nhau cẩn thận mà thôi. Ai chả mong mình lành lặn và được trở về sau trận chiến. Tôi nhận thấy cái bắt tay rắn rỏi của Đức, truyền cho nhau hơi ấm tình đồng đội, đồng chí, tình thân hữu, san sẻ với nhau trước giờ phút ác liệt này. Chúng tôi giơ bàn tay lên vẫy nhau, chia tay nhau bằng nụ cười nhưng đầy những nỗi niềm canh cánh và lo lắng về trận đấu đang tới gần kề. Tôi mong cho Đức được bình an trở về. Bước chân vội vã, mỗi đứa một hướng, chỉ có chiến trường mãi mãi là cái tên chung dành cho những người lính chúng tôi không bao giờ mất. Bóng của Đức xa khuất, lẫn trong tiếng gió reo của trời đêm Đắc Siêng lộng gió, đầy ánh sao đêm.
Tôi trở về với công việc khẩn trương của mình. Chúng tôi lao vào đào công sự. Đến 4 giờ sáng thì mọi việc coi như tạm ổn, hầm cho khẩu đại liên, hầm chỉ huy và hai chiếc hầm cá nhân đã làm xong. Trong ánh sáng mờ mờ, tôi ngắm nghía công sự của anh em và thấy khá yên tâm. Công sự cho đại liên thuận lợi cho việc bắn máy bay và bắn bộ binh. Tôi kiểm tra thấy súng đại liên vừa bắn thẳng được vào các lô cốt đầu cầu, vừa bắn được bộ binh địch từ dưới sườn đồi lên. Mọi cái đều trong tư thế sẵn sàng, anh em trong đơn vị đào hầm, mồ hôi nhễ nhại, đang ngồi uống nước và thở phào.
Thực ra, việc làm công sự không có gì phức tạp, là việc mà chúng tôi đã quá quen. Đào hầm xong, chúng tôi lấy gậy hành quân làm xà. Mọi công việc diễn ra trong chớp loáng, mỗi người một tay một sức. Đây cũng là hầm bảo vệ tính mạng cho mọi người, là chỗ phòng thân nên ai cũng nghiên cứu làm cho tốt. May mà đất ở nơi đây còn dễ đào, những xẻng đất được hất lên cùng với những giọt mồ hôi nhạt nhòa trên gương mặt mỗi người. Mồ hôi nhỏ xuống, bộ đội chỉ quệt ngang rồi lại tiếp tục công việc. Anh em chúng tôi có sáng kiến, lấy dây túm miệng bao lại thành bao đất. Sau đó cứ việc đặt lên các đòn gỗ mà anh em đã chuẩn bị trước là thành nắp hầm. Hầm làm kiểu này chỉ tránh được đạn bắn thẳng, mảnh pháo, còn bom thì khó có thể trụ nổi.
Khó khăn lớn nhất lúc này là ngụy trang. Đây là tình huống mà khi tác chiến trên sa bàn ở Trung đoàn không ai tính đến. Từ hàng rào địch cho đến trận địa của chúng tôi là đồi trọc, đất trống do địch đốt cháy sạch cỏ cây từ trước. Tất cả trận địa lem nhem, nham nhở. Nhớ lại kinh nghiệm ở trận đồi Cháy- Chư Đô, tôi cho anh em lấy đất mùn tro, rắc lên chỗ đất mới đào. Còn miệng hầm thì cắm bằng các cành cây bị cháy sém. Nhìn bên ngoài, khó ai có thể phát hiện được đây là căn hầm trú đạn.
Đúng 5 giờ 30 phút ngày 1 tháng 4, núi rừng Đăk Siêng rùng rùng rung chuyển bởi hàng loạt pháo lớn của mặt trận cối 120 bắn tấp cập vào cứ điểm giặc. Tiếp nối dàn đại pháo là lưới hỏa lực nhiều tầng của ĐKZ, cối 82, súng 12,7 ly của trung đoàn, tiểu đoàn bắn dồn dập vào cứ điểm…oàng oàng… đua nhau trút bão lửa xuống đồn Đăk Siêng. Bộc phá mở cửa hàng rào cứ điểm của đại đội 1 vang lên. C1 bắt đầu mở cửa. Tất cả ầm rung mặt đất.
Cứ điểm Đăk Siêng chìm trong khói lửa, bụi đất bay loạn xạ. Bị đánh bất ngờ, địch hốt hoảng gọi pháo lớn chi viện. Ngay từ những phút đầu, đạn cối của ta bắn vào khu trung tâm của căn cứ địch và đã bắn trúng những mục tiêu quan trọng của địch, chúng không kịp trở tay. Bộ đội ta vừa đánh vừa phá rào vây lấn, xiết chặt vòng vây. Bị quân ta vây lấn, địch rơi vào tình thế nguy kịch và bị bất ngờ nên lúng túng. Sau đó khoảng 15 phút, pháo giặc từ cứ điểm Plây Cần, Đăk Mót tới tấp bắn thẳng vào xung quanh hàng rào. Nhiều, rất nhiều quả đạn pháo của địch rơi vào gần trận địa chúng tôi.
Trời sáng dần. Cửa mở của đại đội 1 và trận địa đại liên cũng lộ dần. Phát hiện ra cửa mở, bọn địch trong cứ điểm dùng ĐKZ, cối, súng phóng lựu, súng máy bắn xối xả vào đó. Bầu trời giật những tia chớp sáng lóe xé rách nền khói đen hung hãn. Những quả đồi cũng mờ mịt sau làn khói đen nhưng cách xác định phương hướng là chúng tôi không thể chệch được. Tôi lấy thước ngắm đại liên, bắn vào các lỗ châu mai của địch. Bắn được hai loạt thì giao cho anh Hoàng Ngọc Loan tiếp tục bắn uy hiếp. Trong khói đạn, thấp thoáng bóng Hà Văn Nhật chạy đến hầm tôi. Trên nét mặt anh lộ rõ nét lo lắng. Anh nhảy xuống công sự đại liên, nhìn tôi, nói:
- Đại đội một đã phá được sáu hàng rào như đã thể hiện trên sa bàn. Khi xung phong, vượt qua cửa mở đánh chiếm lô cốt đầu cầu thì phát hiện một số hàng rào chưa phá hết. Vẫn còn một hào chông, ba hàng rào vướng chân, do đó mũi tấn công đi đầu của đại đội còn cách lô cốt địch khoảng 20 mét nữa, phải nằm xuống tránh đạn. Đề nghị khẩu đại liên bắn kiềm chế lô cốt. Tôi đưa tay về phía lô cốt đầu cầu bị phá hỏng một nửa, nói:
- Lô cốt đầu cầu trước cửa mở C1 đã bị khống chế. Địch bắn vào C1 là trong trung tâm và máy bay. Khẩu đại liên tiếp tục bắn khống chế cho C1.
Trong khi đó địch đang bắn phá dữ dội vào cửa mở, khói bụi mịt mù, anh em đại đội 1 cũng bị thương vong nhiều. Đại đội 1 tiến thoái lưỡng nan, vì thế anh đề nghị đại liên bắn thật mạnh vào những lỗ châu mai để khống chế hỏa lực giặc. Tôi bàn với anh Nhật:
- Trước mắt, cho bộ đội đào hầm trú ẩn tại chỗ, sau đó tiếp tục vây lấn. Nếu không có công sự còn thương vong nữa. Anh đồng tình với cách xử lý tình huống của tôi và lại băng khói lửa về với đại đội mình. Những lúc khó khăn như vậy, chúng tôi không có một đường dây nào liên lạc nhanh chóng khẩn cấp, anh em phải băng qua đạn, qua bom để triển khai mọi kế hoạch chiến đấu kịp thời. Cũng không còn cách nào khác, dù nguy hiểm nhưng vẫn phải băng qua làn đạn để về chỉ huy đơn vị. Trời càng sáng, cửa mở đại đội 1 càng lộ rõ. Súng ĐKZ và súng máy của địch trong đồn bắn ra của mở dữ dội. Lúc này, pháo của cấp trên bắn kiềm chế vào quân địch rất yếu ớt. Anh em bộ binh đại đội 1 mắc kẹt tại cửa mở.Tình thế lúc này rất gay go.
Tôi ra lệnh cho xạ thủ Loan bắn mạnh vào lô cốt đầu cầu, nơi mà khẩu đại liên của địch đang bắn xối xả vào cửa mở. Đại liên của ta và đại liên của địch đối lửa ác liệt. Có thể nói hai bên đã nhè vào nhau và bắn không tiếc đạn. Lúc ta bắn thì nó im, khi ta dừng thì nó lên tiếng. Lúc như bắn nhử, lúc lại như thăm dò. Chúng tôi bắn chừng được hai mươi phút, gần hết một hòm đạn thì nòng súng rực đỏ lên, phải đổ nước vào để làm mát, sau đó phải thay nòng súng phụ tiếp tục chiến đấu. Bàn tay của anh em chúng tôi cầm súng, cầm đại liên, đạn lắp vào rồi lại bắn liên tiếp.
Vài tiếng đồng hồ sau đó thì máy bay trinh sát V010, C130 và từng đàn trực thăng vũ trang phành phạch bay đến từ hướng Kon Tum trông như đàn quạ đen. Từ khi vào chiến trường đến nay, tôi chưa bao giờ thấy trực thăng nhiều đến thế. Những cánh quạt quay phành phạch trên bầu trời, không dấu đi nổi tiếng kêu. Cả vùng trời đen đặc trực thăng, chúng túa ra như ruồi bay. Chúng bay lượn một vòng quan sát rồi thi nhau bắn róc két, đạn cối vào trận địa. Khẩu đại liên của chúng tôi thi nhau chĩa lên trời nhằm vào lũ trực thăng nhả đạn.
Tiếp nối đợt bắn phá của lũ trực thăng là màn oanh tạc của phản lực. Bom sát thương, bom napan tới tấp rơi xuống. Khói lửa cuồn cuộn ngút trời. Một quả đạn rốc-két nổ cạnh công sự đại liên của chúng tôi làm đồng chí Nguyễn Văn Thu hy sinh và đồng chí Trần Xuân Hồng bị thương. Máu chảy ra ướt cả vai áo. Chúng tôi băng bó cho đồng chí Hồng rồi lại tiếp tục bắn máy bay và lô cốt địch. Không ai tỏ ra hoảng sợ, nao núng khi cái chết gần kề trong gang tấc. Từ sáng đến tối, dưới mưa bom bão đạn, khẩu đại liên gan góc bám trụ trận địa đánh trả lại kẻ thù. Cái mệt thấm vào từng người nhưng không ai nản lòng, địch vẫn còn đánh phá thì khẩu đại liên tiếp tục chiến đấu. Đã quá bữa, phải vội vàng ăn để tiếp tục chiến đấu. Ai cũng kiên cường vừa dùng súng vừa đánh bộ binh kết hợp, đánh ngăn chặn sự chi viện, bắn rơi những chiếc trực thăng hùng hổ.
Đêm dần buông. Liên lạc tiểu đoàn chạy xuống thông báo cho chúng tôi biết: Trong ngày đầu tiên của chiến dịch vây lấn, chúng ta đã diệt được 25 tên địch, 5 lô cốt, phá nát trận địa pháo và 7 nhà lính. Quân ta thu được chiến công lớn nhưng phải rất khó khăn, đặc biệt là sự hy sinh của các chiến sĩ thì không thể kể hết được, đại đội 1 bị thương vong khá nhiều. Tối đó chúng tôi khẩn trương vận chuyển thương binh, liệt sĩ ra tuyến sau và tiếp tục củng cố trận địa cho những cuộc đọ sức sắp tới.
Tôi nhìn anh em mình. Khẩu đại liên chỉ còn lại có năm người, mặt mũi ai cũng hốc hác xạm đen lại, dường như phải thức suốt cả ngày lẫn đêm, không có lúc nào được nghỉ ngơi, có nằm xuống cũng thấy chẳng an lòng, lại nhấp nhổm bò dậy. Tôi bảo mọi người thay nhau ngủ để lấy sức, dù chỉ là ngắn ngủi. Bữa ăn đã thiếu thốn nhưng sức khỏe vô cùng quan trọng. Xong đâu đấy, tôi nhanh chân chạy qua đại đội 1 gặp anh Nhật để bàn chuyện hợp đồng chiến đấu ngày mai. Thời gian rất cần kíp, mọi cái đều diễn biến với nhiều tình thế không thể định trước được. Số anh em của đại đội 1 đang hì hục sửa chữa hầm hố công sự bị sạt lở và chờ lệnh của tiểu đoàn. Tôi vừa đến bên anh Nhật thì một loạt đạn cuả máy bay C130 bắn suýt đúng người. Anh Nhật vẫn nói khó khăn của C1 là chưa vượt được hào chông. Trong lúc đó anh em thương vong quá nhiều. Tôi bàn với anh Nhật:
- Chờ chủ trương cấp trên. Nhưng bây giờ phải cho anh em tranh thủ đào công sự để vây lấn. Đánh theo phương án 1 là không ổn rồi. Cả đại đội chỉ còn 12 tay súng thì rất khó khăn. Anh nên báo cáo tiểu đoàn chi viện thêm. Bàn bạc với anh Nhật xong thì tôi lại về ngay hầm đại liên để củng cố công sự.
Đứng gác trong đêm khét mùi bom đạn, tôi nghĩ lại cuộc chiến đấu vừa xảy ra hôm nay. Có điều gì đó chưa ổn. Công tác chuẩn bị cho chiến dịch còn nhiều lỗ hổng. Những gì xảy ra trong trận đánh, khác xa với những gì tác chiến trên sa bàn. Bên sa bàn hôm đó, tôi từng đưa ra thắc mắc: giữa đất trống đồi trọc như thế này thì chúng ta ngụy trang công sự bằng gì?. Đồng chí tác chiến trả lời: “trong chiến dịch này, mặt trận và trung đoàn sẽ điều động một lực lượng lớn pháo cao xạ để bắn máy bay địch không cho chúng tự do oanh tạc vào trận địa chúng ta, các đồng chí đừng lo lắng, cứ vây lấn đánh bộ binh cho tốt”. Nhưng qua một ngày chịu bom đạn tơi bời, chúng tôi chẳng hề thấy pháo cao xạ đâu cả. Mặt khác, lúc đánh sa bàn thì cấp trên nói hướng đại đội 1 tấn công chỉ có sáu hàng rào thôi nhưng thực tế thì còn có hào chông và mấy hàng rào vướng chân nữa. Sự thiếu chính xác này đã làm cho trận đánh trục trặc, bộ đội ta không thể ngồi im, tiến công thì bị thương vong nhiều, bộ đội ta bị hy sinh không đáng có. Trong chiến trận, người chỉ huy nắm được địch càng chính xác bao nhiêu, càng đề ra được nhiều phương án tác chiến hay, tiết kiệm xương máu cho chiến sĩ càng nhiều. Anh em biết ơn những người chỉ huy như thế. Tôi nghĩ vậy nhưng chẳng ai dám nói điều ấy ra, vì sợ tác động không tốt tới tinh thần chiến đấu của anh em.
Ngày hôm sau, địch bắn phá dữ dội, ác liệt hơn. B52 rải thảm xung quanh trận địa. Từng vệt hố bom xám xịt vây lấn nơi đứng chân của chúng tôi. Phụ họa với pháo đài bay của Mỹ là lũ thần sấm, con ma, trực thăng tới tấp ném bom, bắn rốc két vào trận địa chúng tôi. Bom đạn dày đặc như thế nhưng chẳng hiểu sao chúng tôi vẫn bám trụ được. Có lúc tôi tưởng rằng, qua mỗi trận chiến sẽ chẳng còn ai sống sót, ấy vậy mà hoàn toàn khác. Quân giặc bị thiệt mạng rất nhiều. Trong trận chiến chẳng ai nghĩ đến sức mạnh kì diệu ấy nhưng ai cũng chiến đấu hết mình. Trách nhiệm và danh dự của người chiến sĩ đã làm cho chúng tôi trở nên gan góc, bất chấp hiểm nguy. Có thể nói, chúng tôi đã ra trận với niềm tin vào lý tưởng chủ nghĩa xã hội cao đẹp và ý thức rõ rệt về sự chính nghĩa của cuộc chiến đấu giải phóng Tổ quốc của nhân dân ta. Chúng tôi chiến đấu cho ngày mai của dân tộc, một ngày mai không còn bóng quân xâm lược trên đất nước ta và Tổ quốc Việt Nam được xây dựng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như mong ước của Bác Hồ và hàng triệu, hàng triệu người dân yêu nước. Trong những năm tháng ác liệt, những điều ấy thấm vào máu xương chúng tôi, nó trở thành nếp nghĩ, việc làm hàng ngày của người lính cách mạng. Chính vì thế mà không ít chiến sĩ đã tự nguyện xả thân vì nghĩa lớn, cái chết nhẹ nhàng mà cao cả, không thể lấy gì bù đắp được. Chỉ có một mục đích là bảo vệ Tổ quốc và giành độc lập. Ai cũng có thể nghĩ đến cái chết nhưng không ai vì thế mà nản lòng. Thậm chí họ còn thấy hy sinh là hạnh phúc lớn lao.
Sân bay Đăk Siêng đã bị ta phong tỏa. Khoảng 11 giờ trưa, trên bầu trời Đăk Siêng xuất hiện mấy chiếc C130 thả hàng tiếp viện cho cứ điểm. Khi thấy những chiếc C130 xuất hiện súng phòng không của mặt trận nổ giòn giã làm cho nó không dám bay thấp, buộc phải bay tít trên cao thả dù xuống. Nhiều kiện hàng rơi ra ngoài cứ điểm địch. Có kiện rơi vào gần trận địa ta. Trong cái rủi đã có cái may. Mấy ngày vây lấn Đăk Siêng, ban ngày đường liên lạc của ta bị cắt đứt, cơm nước không đưa lên trận địa được. May có thằng C130 tặng cho mấy kiện đồ ăn, lại là đồ hộp hảo hạng nên anh em tiểu đội cũng đủ chia nhau dùng, thậm chí là tươm tất nữa, có bia lon, giò hộp, xúc xích…
Chiến dịch vây lấn đã bước sang ngày thứ ba, thứ tư. Khẩu đại liên của chúng tôi vẫn bám trụ lấy trận địa. Địch đã phát hiện ra và thấy rõ sự lợi hại của khẩu súng này nên quyết tâm dùng bộ binh đánh thốc vào công sự chúng tôi. Ý định của giặc là dập tắt hỏa lực mạnh của ta đồng thời cắt đứt liên lạc giữa tiểu đoàn và đại đội 1. Trận đánh ngày càng ác liệt, tôi và anh Loan đã bị thương cùng với vài đồng chí khác nữa nhưng quân số còn lại ít nên không chịu rút về tuyến sau. Anh em bảo nhau cố sức chịu đựng. Có những lúc thấy lực lượng của ta thương vong nhiều mà chẳng thể bổ sung thêm được người lúc này.
Tối mùng 3, anh em vận tải khiêng thương binh của đại đội 1 về tuyến sau đi qua trận địa đại liên. Tôi hỏi thăm thì biết được Đức cũng nằm trong số thương binh ấy. Người bạn đồng hương của tôi bị thương khá nặng, máu ra nhiều ở chân, tôi hỏi Đức trả lời yếu ớt lắm, bị mất máu nhiều nên người Đức cứ đuội dần đi. Đức dũng cảm lắm, có lẽ nằm đây nhưng Đức vẫn nhớ những gì hai đứa nói với nhau hôm trước. Tôi vẫn còn may mắn hơn nhiều người, vết thương không quá nặng, vẫn còn đủ sức chiến đấu.
Sáng mồng 4, những loạt pháo bầy từ Plây Cần đã nã tới tấp xuống trận địa của chúng tôi. Pháo bắn chưa dứt thì máy bay đã lao đến ném bom napan. Sau những tiếng bục nhỏ là từng quầng lửa bùng lên cuồn cuộn. Cái nóng hừng hực phả ra từ quả cầu lửa của bom Napan táp vào người bỏng rát. Chúng tôi chống chọi với bom napan, nói sao cho hết được sự vất vả cực nhọc của anh em lúc ấy. Tôi lo nhất là bom Napan trùm lên trận địa ở Chư- Đô. Nên đã cho anh em chuẩn bị phòng cháy cẩn thận. Đợt ném bom Napan này trong khẩu đội có hai đồng chí của ta đã bị thương. Khoảng 8 giờ, trong khói lửa mịt mùng, tôi phát hiện ra nhiều lính địch (ước khoảng 1 tiểu đoàn) đang từ hướng sân bay tràn lên. Toàn lính Ngụy. Bọn chúng tưởng Việt Cộng đã bị thiêu rụi gần hết rồi hay sao mà thấy chúng hung hăng thế. Có đứa dùng loa điện gọi “hàng thì sống, chống thì chết”. Chúng đi một cách nghênh ngang, nhìn mà nóng mắt. Tôi bảo anh em, chúng ta cứ im lặng, chuẩn bị pháo và lựu đạn sẵn sàng sống chết với tụi chúng, không thể để chúng ngang nhiên và hung hăng như thế kia được, phải cho chúng một quả bất ngờ, cho chết cả loạt. Thú thực, khi nhìn thấy đội quân Ngụy lúc đó, tôi sôi máu hừng hực, vừa mừng vì phát hiện ra bọn chúng nhưng phải thật bình tĩnh, không được nôn nóng cùng đồng đội chuẩn bị kỹ càng, tập trung vào mục tiêu. Dù sao đây cũng là thời cơ để ta đánh địch được nhiều và ta đang ở thế chủ động tiến công.
Anh em vừa chuẩn bị, vừa hồi hộp lo lắng. Chúng tôi bàn bạc gấp gáp, khẩn cấp, cùng ngắm địa hình để tìm cách đánh chúng hiệu quả nhất. Trận địa đại liên ở trên sườn dốc, địch từ dưới thung lũng đi lên nên lợi thế về địa hình thuộc về chúng tôi. Chúng không biết rằng chúng đang bị chúng tôi theo dõi, dò theo từng bước tiến của chúng. Lần đầu tiên, chúng tôi được đánh địch trong một tư thế chủ động và sẵn sàng đến thế. Khi địch cách trận địa chừng 30 mét, tôi hô anh em ném lựu đạn vào đội hình chúng. Mấy thằng bị dính đạn bất ngờ nên ngã xuống, kêu la oai oái. Sau phút lộn xộn bởi sự tấn công bất ngờ của chúng tôi, địch xốc lại đội hình, tập trung hỏa lực bắn xối xả vào trận địa đại liên. Bọn lính vừa lò dò tiến lên, vừa bắn không tiếc đạn, vừa to miệng hò hét chúng tôi đầu hàng. Tôi nói với anh Loan: cứ bình tĩnh, chờ chúng lên thật gần mới nổ súng, lúc đó vừa tiêu diệt được nhiều, lại vừa làm cho địch chủ quan. Tôi vừa nói vừa theo dõi bước chân địch, chúng cách chúng tôi 20 mét rồi 15 mét, khoảng cách ngắn dần. Khi thấy rõ mặt mũi của bọn chúng tôi mới hạ lệnh bắn. Khẩu đại liên Cô-ni-cốp rung lên xả đạn ràn rạt vào giữa đội hình địch, nhiều thằng giặc ngã ngục ngay từ loạt đầu. Số còn lại không dám hung hãn nữa, hoặc nằm mẹp xuống đất hoặc núp sau những kiện hàng máy bay C130 thả lạc sang trận địa ta. Tôi bảo anh em ném lựu đạn vào những kiện hàng đó. Trong tiếng nổ chát chúa của lựu đạn là tiếng kêu thét của bọn lính Ngụy dính đòn đánh trả quyết liệt của chúng tôi.
Gần trưa, xem chừng tấn công bằng bộ binh không ăn nhằm gì, địch quay lại trò cũ. Chúng kêu gọi sự tiếp sức của những cánh quân bằng đường không. Máy bay trực thăng, máy bay phản lực thay nhau bắn phá trận địa chúng tôi. Khẩu đại liên thêm hai đồng chí hy sinh do rốc két bắn trúng hầm. Chỉ còn lại ba người là tôi, anh Loan, anh Hồng nhưng ai cũng bị thương. Tôi bảo hai anh kiểm tra súng đạn, thủ pháo, lựu đạn, thấy còn đủ để chiến đấu đến chiều nên cũng yên tâm. Số lượng người chỉ còn lại mấy anh em nên ai cũng bảo nhau tập trung sức lực để chiến đấu tới cùng. Anh Hồng và anh Loan rắn rỏi, mưu trí và dũng cảm lắm. Lúc này, chúng tôi đều biết tựa vào nhau mà chiến đấu, vết thương ai nấy đều không màng nghĩ tới, chỉ cần băng bó tạm là chiến đấu được.
Suốt từ trưa cho đến chiều máy bay giặc quần đảo liên hồi, chẳng để chúng tôi yên chút nào. Mặt trời chênh chếch bóng, tôi cảm thấy người rã rời. Từ tờ mờ sáng đến giờ, bận quần nhau với địch chưa kịp ăn uống gì. Tôi lấy cơm nắm ra, vừa cắn một miếng, chưa kịp nuốt thì bỗng nghe tiếng chân địch di chuyển. Lần này có vẻ như đông hơn và chúng bước rất nhanh. Hóa ra, chúng cho máy bay lượn nhằm lừa thăm dò chúng tôi trước để cho bộ binh chúng di chuyển. Mà cũng có thể, địch đoán chúng tôi đã chết hết nên vội vàng lên chiếm lĩnh trận địa chăng? Tôi nói với anh Loan: cứ bình tĩnh, chờ hắn vào gần hơn lúc nãy mới bắn. Lần này thì chúng tôi lâm vào tình thế nguy hiểm hơn. Chúng tôi chỉ có ba anh em. Bởi vậy, phải chờ cho chúng đến thật gần mới bắn. Anh Loan im lặng gật đầu. Hai tên lính đi đầu chỉ cách công sự khoảng 8 mét, tôi mới xiết cò súng AK. Một thằng gục xuống ngay tại chỗ, thằng khác theo cái đà đang chạy lao tới gần cửa hầm của chúng tôi mới ngã xuống. Cùng lúc đó, khẩu đại liên do xạ thủ Loan điều khiển quét băm bổ vào giữa đội hình địch. Nhiều tên gục xuống. Xác chồng lên nhau. Địch bật về phía sau nhưng chúng cũng không còn tỏ ra nao núng, lại tiếp tục tổ chức thêm nhiều đợt tấn công mới. Nhìn những xác địch nằm xuống ngổn ngang.
Bắn được khoảng 20 phút thì nòng đại liên rực đỏ lên. Tôi dùng súng AK để bắn kiềm chế địch để cho anh Loan tranh thủ đổ nước vào nòng súng. Phải làm cho nòng súng nguội đi, đạn mới lao đến mục tiêu được. Tôi đang hăng máu xiết cò thì một ánh chớp bùng lóa, kèm theo tiếng nổ chát chúa vang lên ngay miệng hầm. Đất đá bay rào rào, khói bụi mù mịt. Tay tôi đang đặt vào cò súng mà lạ thay súng không bắn được. Nhìn sang anh Loan cũng bị thương vào đầu, máu chảy tràn xuống mặt. Tôi lao đến băng bó cho anh Loan thì chính anh lại phát hiện ra tôi bị thương ở tay. Chúng tôi quên đi cả cái đau, vội vàng băng bó cho nhau rồi trở về vị trí chiến đấu. Quả đạn cối của địch nổ ngay ở miệng hầm đã làm cho hai chúng tôi bị thương, càng súng đại liên bị hỏng. Súng AK của tôi cũng bị mảnh cối làm hỏng cò. Anh Hồng bị thương vào mắt không thể chiến đấu được nữa. Tôi và anh Loan để anh Hồng chui vào hầm. Tôi nói với Loan:
- Mấy hôm nay khi tấn công, địch đều kêu gọi bộ đội ta đầu hàng, rất có khả năng chúng muốn bắt sống chúng ta. Bây giờ địch còn đông mà lực lượng khẩu đội không còn nhiều, súng thì đã hỏng, đạn còn ích. Vì thế ta phải chuẩn bị phương án cuối cùng là để dành một quả lựu đạn, thà chết chứ không để địch bắt sống. Loan nhìn tôi gật đầu:
- Vẫn đang còn 5 quả mà! Tôi gật đầu đồng tình.
Đứng ở tình thế nguy kịch như thế này, chúng tôi lo lắng lắm. Mục tiêu là làm sao diệt được nhiều địch và bảo vệ được công sự, không cho chúng đánh chiếm. Đã từng chiến đấu nhiều trận với anh Hoàng Ngọc Loan, tôi tin lời anh nói. Với anh Loan, phẩm chất hàng đầu của người lính cách mạng là lòng dũng cảm. Thà chết chứ nhất định không đầu hàng, không thoái thác nhiệm vụ, không được rời trận địa khi chưa có lệnh của chỉ huy. Những lúc lâm nguy như thế này, có những người lính gan góc như anh Hoàng Ngọc Loan bên cạnh, tôi cũng vững lòng hơn. Dù tôi là chỉ huy nhưng sự bình tĩnh của anh Loan đã củng cố lòng tin của tôi rất nhiều. Tôi tin và hành động của chúng tôi là đúng, sự đổ máu của chúng tôi không hề hoang phí một chút nào.
Với người lính chiến trường, vật gắn bó sâu sắc nhất là khẩu AK. Nó là vật “bất ly thân” như cách nói thông thường của bộ đội. Tôi nhìn khẩu AK đang dựng ở góc hầm. Nó cũng như chúng tôi, không còn lành lặn nữa. Khẩu AK này đã theo tôi đi từ chiến dịch này đến chiến dịch khác, đã cùng tôi đẩy lùi nhiều cuộc tấn công của địch; khi vui, khi buồn, lúc no, lúc đói, khẩu AK này vẫn thực sự là người bạn tri kỷ, sống chết với tôi.
Trước mặt tôi bây giờ là kẻ thù. Chúng vẫn đang hò hét thúc nhau tiến vào trận địa. Khẩu đại liên bây giờ đã hỏng càng, chỉ có ba người lính nhưng đã bị thương và mấy khẩu súng bộ binh cũng đã hỏng, cùng với cơ số đạn tối thiểu. Chúng đang nuôi hy vọng là sẽ bắt sống được mấy chiến binh Việt cộng. Nhưng chúng đã nhầm. Chúng tôi vẫn vững lòng chờ bọn chúng vào thật gần mới nổ súng. Tôi bàn với Anh Loan là khẩu đại liên hỏng càng thì tìm cách giá súng lên bờ công sự để bắn. Tôi và Loan hỳ hục lợi dụng bờ công sự để giá khẩu đại liên. Tôi ngắm thử, gật đầu bảo Loan:
- Tốt. Đường ngắm không có vật cản. Kìa, bọn chúng đang lên đông lắm. Bây giờ anh nâng hòm đạn để tôi bắn nhé. Qua đường ngắm, tôi nhìn rõ bọn địch đội mũ sắt, hai tay lăm lăm khẩu AR15 chúng đang đi lom khom. Tôi bảo anh Loan, một tay nâng hòm đạn, tay kia giữ thăng bằng mặt súng. Tôi lấy đường ngắm chính xác. Tên địch đi đầu quá gần. Loan giục tôi bắn. Tôi từ từ chỉnh đầu ruồi súng đúng tên đí đầu, ấn cò! Khẩu đại liên rung lên khùng khục nhả đạn. Vỏ đạn văng khắp hầm. Có vỏ văng cả lên đầu, mặt Loan. Mặc. Tôi vẫn bóp cò. Bọn địch vừa chạy vừa bị đạn đại liên bắn đúng đội hình ngã chồng lên nhau như cây chuối đổ rạp trong cơn bão. Những đứa sống sót bật lui, co cụm lại sau những kiện hàng tiếp vận. Tôi trao khẩu đại liên cho Loan và ném lựu đạn. Tôi dùng sức mạnh còn lại ném lựu đạn vào những chỗ địch có cụm. Lựu đạn nổ, bọn Ngụy rú lên, hốt hoảng tản ra thì lại dính đòn đại liên của anh Loan quét tới. Cuộc chiến đấu giữa hai chúng tôi và kẻ địch giằng co nhau mãi đến 5 giờ chiều mới tạm ngừng. Địch rút quân về hướng sân bay để lại nhiều xác chết nằm la liệt trên vùng đồi lở lói vết đạn bom. Tôi và anh Loan quá thấm mệt.
Tôi ngồi dựa vào thành công sự, tay rỉ máu đỏ cả băng. Bây giờ mới thấy đau. Mấy hôm nay chẳng chợp mắt được tí nào, giờ đây tuy đau nhưng cơn buồn ngủ lại ập đến, hai mi mắt nặng trĩu chỉ muốn sập xuống. Mặt trời đã dẫn khuất sau dãy núi trước mặt. Đất trời lặng yên như không gian sau bão. Tôi muốn chợp mắt mà không dám vì sợ địch lợi dụng đêm tối lén đột kích vào trận địa. Tôi cảm thấy mệt quá, có cảm giác chỉ cần tựa lưng vào vách hầm là có thể thiếp đi được. Sao bây giờ buồn ngủ vậy. Tôi và Loan nhắc nhau chớ có ngủ lúc này. Phải đề phòng chúng tập kích đêm. Loan thấy vết thương của tôi chảy máu nhiều nên băng lại cho tôi. Đúng lúc nầy, anh Trần Mộng Dung, trợ lý chính sách tiểu đoàn cùng với liên lạc và đội vận tải có mặt ở trận địa. Nhìn các anh chúng tôi vui mừng khôn tả. Anh Dung là người cùng học, cùng đi bộ đội với tôi. Anh truyền đạt mệnh lệnh của tiểu đoàn là khẩu đội đại liên khẩn trương rút về phía sau, súng đạn bàn giao lại cho các đồng chí vận tải. Dung xem vết thương của tôi, vỗ vai tôi nói:
- Mấy hôm nay không bắt được liên lạc với khẩu đội đại liên nên tiểu đoàn lo lắng lắm. Anh chuyển lời thăm hỏi, biểu dương của thủ trưởng Tiểu đoàn đến với chúng tôi. Nhìn Dung, tôi mừng lắm, tay tôi nắm chặt tay Dung:
- Cảm ơn tiểu đoàn. Cảm ơn Dung. Thế là gặp nhau rồi. Tôi nhìn sang Loan: Bọn mình tưởng bị bắt rồi cơ. Thế là hạnh phúc rôi. Dung cười và vỗ vai Loan:
- Ba ông chưa mất gáo, thế là tốt lắm rồi. Nói đến đây, Dung chớp chớp mắt:
- Anh Nhật hy sinh rồi. Thương anh ấy quá. Nghe đến đây tim tôi đau nhói. Thế là lại mất đi người anh, người đồng chí chiến đấu anh dũng. Tôi nhìn về phía đơn vị anh Nhât, bùi ngùi:
Anh Nhật ơi, cách đây vài hôm tôi và anh còn đang bàn bạc với nhau về việc phối hợp chiến đấu trước quân thù ở hàng rào cứ điểm Đăk Siêng. Khi C1 của anh gặp nhiều khó khăn trong tấn công, hai anh em ta còn tìm đến nhau bàn cách tháo gỡ. Giữa một vùng bom đạn ngút trời, tình cảm đồng chí mới sâu sắc và cụ thể làm sao. Chúng ta đã chia lửa cho nhau, không mảy may tính toán. Thế mà giờ đây anh đã nằm sâu ba tấc đất nơi núi rừng Tây Nguyên. Một nấm mồ đắp tạm giữa ngàn xanh. Đất bazan đỏ au như máu, bốn bề gió thổi hoang vu. Thương lắm các anh, những đồng đội thân thiết của chúng tôi. Nhưng chiến tranh biết làm sao được. May mắn cho chúng tôi còn được sống đến ngày hôm nay nhưng cũng thương tích đầy mình và ngày mai sẽ ra sao thì chúng tôi không ai đoán được.
Tôi, Loan và Hồng theo Dung hành quân về tiểu đoàn. Xa xa, tiếng pháo cầm canh từ Tân Cảnh bắn lên xung quanh Đăk Siêng nổ đì đòm. Trận đánh vây lấn Đăk Siêng là trận đánh vô cùng ác liệt.Quân địch đã tập trung lực lượng lớn để phản kích hòng chiếm lại trận địa của ta nhưng với tinh thần chiến đấu ngoan cường, các chiến sĩ tiểu đoàn 1 và các đơn vị khác đã đánh bại các mũi tiến công của địch. Lịch sử Trung đoàn 28 có đoạn ghi: “Sáu ngày đêm tiến công, vây lấn cứ điểm Đăk Siêng, Trung đoàn 28 và lực lượng tăng cường đã tiêu diệt và làm bị thương 240 tên địch (có 20 tên cố vấn Mỹ), phá hủy hơn 50 phần trăm công sự, nhà cửa, làm cháy nổ nhiều kho tàng đạn dược, phá hỏng hai khẩu pháo 105 mm, hai khẩu cối 106,7 mm, một khẩu ĐKZ, bắn rơi 10 máy bay…buộc địch phải đưa lực lượng lên ứng cứu giải tỏa đúng như dự kiến. Về phía Trung đoàn có 33 đồng chí hy sinh, 55 đồng chí bị thương, mất mát, hư hỏng 24 khẩu súng…”.
Đặc biệt, khi đề cập đến tinh thần chiến đấu của khẩu đại liên, lịch sử Trung đoàn 28 có ghi:
“Cuộc chiến đấu của các chiến sĩ vây lấn ngày càng trở nên khốc liệt. Dưới mưa bom bão đạn của địch, bộ đội vẫn kiên cường giữ vững trận địa, hăng hái chiến đấu đánh địch trong cứ điểm nống ra phản kích và lực lượng cứu viện ở phía sau lưng. Các xạ thủ đại liên tiểu đoàn 1 mang khí phách Vương Tử Hoàng, kiên cường chiến đấu, có khẩu đội chỉ còn một, hai đồng chí, sau trận bom thì vẫn tiếp tục giá súng trên mặt đất trống trải, kịp thời bắn quét gục từng toán bộ binh địch…”.
Ngay sau chiến dịch Đắk Siêng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Quân ủy Trung ương gửi điện khen ngợi cán bộ chiến sĩ Mặt trận Tây Nguyên: “Đặc biệt, mặt trậnbĐắk Siêng đã tiêu điệt một sinh lực quan trong của địch…phối hợp và hỗ trợ tốt cho phong trào quần chúng nổi dậy phá kìm kẹp, giành quyền làm chủ nhiều nơi”.