Thứ Sáu, 4 tháng 6, 2010

TRUYỆN KÝ:Phần 2

Chiến dịch mùa xuân năm 1972

Chiến thắng ÐắcTô-Tân Cảnh

Sau năm 1970 mặt trận phía bắc KON-TUM ta mới giải phóng được cao điểm 1015 (Ngoc-Rinh-Rua, Ngọc-Bầu-Biêng). Năm 1971 giải phóng tiếp sân bay Kà-Leng và một vài trận đánh lẻ đánh địch nống ra ngoài. Sang năm 1972 lực lượng của địch cơ bản không mấy thay đổi: Phía tây là cụm cứ điểm Pờ-Lây-Cần, tây bắc có căn cứ huấn luyện biệt kích Ðắk-Xiêng án ngữ. Phía bắc và đông bắc có cứ điểm Ðắk-Mót và cụm cứ điểm Ðắk-Pét chưa kể các chốt cấp đại đội và các trận địa pháo bố phòng ứng cứu lẫn nhau.Thị trấn Tân Cảnh là trung tâm kinh tế, xã hội, căn cứ hậu cần cung cấp cho dân và các điểm chốt toàn khu vực. Phía bắc Tân Cảnh là quận lỵ Ðắk-Tô, bên kia cầu Tân Cảnh đường 18 đi Ðắk-Mót là căn cứ 42 nơi đặt chỉ huy sở của trung đoàn 44 và sở chỉ huy sư đoàn 22 nguỵ. Phía ta trung đoàn 66 vẫn nắm chặt địa bàn hoạt động của mình. Ðầu năm 72 trung đoàn 95 được điều động từ đèo Măng-Giang lên án ngữ phía tây nam thị xã Kon-Tum .Ngoài các đơn vị chủ lực, ta còn có lực lượng bộ đội địa phương của tỉnh phối thuộc chiến đấu. Năm 1972 kết hợp cùng mặt trận Quảng-Trị ta mở chiến dịch Ðắk-Tô,Tân-Cảnh. Ngoài các đơn vị chủ lực có trên địa bàn, ta điều thêm sư đoàn 320 từ nam Lào về kết hợp tác chiến. Mục đích giải phóng quận lỵ Ðăk-Tô và thị trấn Tân-Cảnh, có điều kiện đánh xuống Diên-Bình,Võ-Ðịnh, giải phóng thị xã và toàn tỉnh Kon-Tum. Chúng tôi ăn tết trước trong hậu cứ Kà-Leng, bổ xung quân, nhận thêm súng đạn, quân tư trang và nhằm phía đông bắc hành quân. Ðường vào chiến dịch thật sôi động, các đơn vị hành quân theo kiểu cuốn chiếu, đơn vị này nghỉ thì đơn vị khác vượt lên. Ðánh lớn hợp đồng binh chủng nên có cả những đơn vị tên lửa B72 đi cùng. Hầu như những thằng lính mới cùng vào một đợt với tôi đều gặp nhau cả, hỏi thăm tíu tít. Qua đồng đội tôi được biết (Lượng thỏ) đánh Kà-Leng bị gãy chân đã được ra bắc, thôi thế là may cho nó, chắc sống một thằng rồi, còn lại chúng ta- tính sau vậy. Ðường hành quân cứ xuyên rừng mà đi, qua cánh rừng nguyên sinh cây cối ngút ngàn, đất xốp lên bởi biết bao nhiêu lớp lá cây rụng thành trầm tích. Có những cây cổ thụ hàng ngàn năm tuổi, cành lá vươn cao trong bầu trời xanh thăm thẳm. Chúng tôi đi trong tiếng hú của bầy vượn gọi nhau ăn sáng và dừng chân khi lũ vượn hú gọi tụ bầy. Có những địa danh không có trong bản đồ mà chỉ có người trong cuộc mới hiểu: Qua dốc có nhiều cây búng báng thì là dốc búng báng.Có con voi chết thì gọi là dốc voi mục hoặc suối trực thăng rơi�Khổ nhất những đơn vị pháo hoả lực, tất cả là trên vai người lính: Ngoài gạo nước quân trang của họ còn phải khênh vác súng đạn:Cối, Pháo tháo rời chia nhau từng chi tiết, cái gì không chia được thì tập trung khiêng. Cối 160 ly một người đeo củ đấm, ba người khiêng nòng, còn chiếc bàn đế thì khỏi phải nói: Nó to bằng chiếc nong phơi lúa, vừa đi vừa phát đường, lên dốc thì sáu người khiêng lặc lè, xuống thì dùng đòn bẩy mà bắn. Sau mười ngày hành quân chúng tôi dừng lại ở một dông đồi khá cao. Phía trên đại đội tôi ở là tiểu đoàn bộ đóng quân.Phía trước đã nhìn thấy mái tôn sáng loá của căn cứ Ðăk-Xiêng.Thụ bảo: Mày sang dông bên phải chỗ anh nuôi ở nhìn thấy cứ điểm Pờ-Lây-Cần đấy! Vậy con đường chúng tôi đang đi xuyên qua hai cứ điểm của địch.Tìm chỗ đào hầm xong, Huy bảo:ở đây dốc thế này đào hầm khoét cho tiện, cứ ba người một hầm. Anh Thụ lên đại đội hội ý về tôi mới hiểu: Ðơn vị chia thành từng cung đoạn vận chuyển lương thực, súng đạn vào phía trước. ở đây rất gần hai căn cứ của địch cho nên yếu tố bí mật địa điểm đóng quân phải đưa lên hàng đầu. Nhiệm vụ của chúng tôi là:Ba giờ chiều nhận hàng của đơn vị bạn chuyển đến, đóng hàng xong đến năm giờ chiều gùi ra bờ sông Pô-Cô là vừa tối để vượt sông. Ði khoảng hơn một tiếng là đến kho bàn giao cho đơn vị bạn xong rồi quay về. Ðến nhà khoảng mười một giờ đêm, xuống bếp anh nuôi lấy cháo về, ăn xong rồi đi ngủ. Ngày mai lại tiếp tục, không ai được nghỉ gùi. Chúng tôi cứ tuần tự như thế mà làm,hôm thì tôi gùi gạo, hôm gùi đạn hoặch thuốc nổ. Có lẽ không một quốc gia nào có một đội quân anh hùng như quân đội nhân dân Việt-Nam. Họ thì binh chủng nào theo binh chủng đó: Không quân chỉ biết không quân, xe tăng thì cứ xe tăng mà tiến. Còn bộ binh thì hành tiến dưới sự yểm trợ của hoả lực các loại.
Chúng tôi thì không: Cái gì cũng từ tay người lính: Ðói thì phát nương làm rẫy, quần áo rách thì vá mà đánh giặc, hết gạo, hết đạn thì gùi về mà ăn, mà bắn địch. Xe tăng, pháo binh, quân y cũng như nhau mà thôi.
Ðịch đã phát hiện dấu hiệu chuyển quân của ta, chúng tung những nhóm biệt kích, thám báo cắt rừng về phía đường vận chuyển. Một lần nhóm biệt kích gặp đoàn gùi của C5 hai bên bắn nhau, ta hy sinh một và địch cũng chết một tên.
Pháo địch bắt đầu bắn vào đường vận chuyển, lũ thám báo chỉ cần phát hiện ra một đoạn đường là chúng chấm toạ độ gọi pháo câu đến khá chính xác máu chiến sỹ ta đã đổ trên từng cung đường vận chuyển.
Một hôm tôi gùi quả đạn cối 120 ly, kể cả liều phóng phụ và hòm gỗ nặng khoảng hơn hai mươi cân.Vượt sang bờ sông bên kia đi khoảng hơn một tiếng, pháo địch không hiểu sao câu đúng đội hình của ta, giáp kho đạn.Tiếng đạn rít trên đầu kèm theo tiếng nổ chát chúa và mảnh bay lắc cắc. Ðêm tối như bưng, tiếng người phía trước lao sao bước vội trên lá mục, tôi chỉ còn biết sờ xuống sườn đồi, mắt căng ra, chỗ nào tối xẫm không có vệt lân tinh bám trên lá mục là con đường dẫn vào kho đạn. Lại một tiếng rít ghê người, tôi nằm xấp xuống, hòm đạn dập xuống lưng, ngực tôi va vào một khúc gỗ đau điếng. Phía trên dốc toé lửa kèm tiếng nổ nhức óc, vẫn chưa chết !Tôi nhổm dậy mò mẫm tìm vào kho đạn.
Ngày hôm sau một toán biệt kích cắt rừng gần chỗ đại đội tôi đóng quân, gặp đơn vị bạn đi gùi về hai bên bắn nhau dữ dội, địch chết một và một tên bị thương.Tiểu đội tôi được lệnh xuất kích.
Chờ trinh sát tiểu đoàn xuống, chúng tôi theo bản đồ cắt rừng đi về phía một bản dân tộc bỏ hoang.Trinh sát đi đầu, cách nhau ba mét là Thụ, sau nữa là Huy, tiếp đến tôi B40 và sau cùng Thấu. Cắt ra một con đường xe ngựa bỏ lại từ hồi Ngô-Ðình-Diệm, chúng tôi lần dần vào bản.
Phía xa thấp thoáng bóng cây ăn quả, chắc là xắp đến bản rồi.Trinh sát vẫy tay ra hiệu cúi thấp người xuống, pháo địch bắn vu vơ sang sườn đồi bên sông.Tôi cúi được một lúc mỏi lưng lại nhổm lên,Thấu đi sau quát nhẹ:- Cái thằng này! Thấp người xuống!
Có vết dày nguỵ in trên nền đất ướt, một vệt cỏ rạp xuống như có ai lê trên đất, thế rồi một cuộn bông băng Mỹ vứt lại trên mặt cỏ máu còn tươi nguyên.
Mặt ai lấy biến sắc, địch rồi ! đi thưa ra! Người ta nhớn nhác tìm kiếm hai bên, tôi cứ như người đánh trận giả, đã biết đánh nhau với biệt kích là thế nào đâu! Thay cho tìm địch, mắt tôi cứ ngước lên ngọn cây xem cây xoài nào nhiều quả, cây mít nào có quả thấp để tý nữa hái mang về cho tiểu đội.
Ði tiễu biệt kích như thế này kể ra nguy hiểm thật. Rõ ràng địch còn nằm trong bản, có thể do có thằng bị thương nên chúng nín thở tránh chúng tôi để chờ trực thăng bốc về hậu cứ. Còn như chúng chủ động hoàn toàn :Sáu thằng nguỵ nằm chờ sẵn-Sáu ông Việt cộng từ ngoài bản đi vào ngơ ngơ, ngác ngác chờ đến thật gần chỉ cần một băng đại liên là ăn đủ.
Có lẽ nghĩ thế nên chẳng ai muốn xông xáo làm gì , tốt nhất là về báo cáo không tìm thấy.Thế là chúng tôi rút quân! Ði ra khỏi bản tôi cứ tiếc cho chùm xoài ngon mà không ai cho dừng lại.
Mấy hôm nay pháo địch bấn vô tội vạ vào khu vực chúng nghi ngờ, bom đánh vào ven sông, đã có nhiều chiến sỹ hy sinh. Pháo từ Ðăk-Xiêng bắn vọt qua đầu chúng tôi nổ ình oàng phía sau dông đồi tiểu đoàn đang ở.Thỉnh thoảng đâu đó lại nghe tiếng trực thăng lạch phạch như đang đổ quân hay bốc biệt kích chuyển đi chỗ khác.
 Dạo này tôi lại sốt, những cơn sốt về chiều nhiều khi phải bỏ buổi không đi gùi được. Một hôm đại đội gọi tôi, Nguyễn Quốc Kỳ( cùng quê, cùng nhập ngũ với tôi) và Thấu mang toàn bộ trang bị lên chốt trên đỉnh đồi tiểu đoàn đang ở.Trên đó có một con đường mòn vắt qua dông đồi ngay cạnh tiểu đoàn bộ đóng quân. Không biết đường của ta hay đường của biệt kích, vết người đi lại thường xuyên và còn rất mới.Tốt nhất cho một tổ chiến sỹ ốm yếu lên chốt chặn là an toàn nhất.
 Chúng tôi lịch kịch lên cao điểm.
Trên điểm cao gió rất mạnh, trời mùa đông lên cao càng lạnh, gió hun hút làm ngả nghiêng lá cây chao đảo. ở đây toàn cây cổ thụ, cành lá vươn dài cao đến ba, bốn chục mét. Ðất ẩm mục, xốp ra, bước lên xồm xộp như đi trên nệm cỏ.
Thấu chỉ cho tôi và Kỳ mỗi thằng cảnh giới một hướng sau đó quay về một gốc cây to dưới sườn dốc: Thấu bảo:- Chú ý cảnh giới đấy! Có gì xuống đây báo cho tôi, lúc nào cần thay gác thì gọi!
Chúng tôi thay nhau cảnh giới, nghe pháo bắn tam toạng tôi bảo Thấu tranh thủ khoét một chiếc hầm nhỏ dưới gốc cây phòng khi phaó bắn.Tôi và Kỳ đem thêm vỏ chăn lên để quấn cho đỡ lạnh, ngày vẫn ba nắm cơm một bi đông nước hành quân lên điểm chốt.
 Buổi sáng ngày thứ tư ngồi dưới một gốc cây rất to có hàng rễ bạnh ra, tôi ôm B40 ngước cổ xem một đàn vượn kiếm ăn ngay trên đỉnh đầu. Con đầu đàn vô tư nhảy múa, chum miệng hót gọi bầy. Giá như ở trong hậu cứ thì mày chết ngay với bố rồi con ạ! Tôi nghĩ bụng.
 Bỗng có một loạt tiếng Miền nam cất lên:- ở đơn vị nào? Ðơn vị nào nói đi!
Mặt tôi biến sắc, một toán người nam có, nữ có, vừa kinh lại vừa thượng đang túm xung quanh Kỳ. Không hiểu nó ngủ gật hay làm cái gì để địch đến tận nơi mà không biết! Trong đầu nghĩ ngay là gặp địch rồi, toàn quân Miền nam cả . Tôi chĩa khẩu B40 về phía địch quát to:
 - Tất cả đứng lại! Giơ tay lên!
 Ðoàn người thất kinh khi thấy khẩu B40 lăm lăm chĩa về phía họ:
 - ấy ấy không được bắn- Không được bắn!
Một người đi đầu cầm súng AR15 vừa xua tay vừa tiến lại phía tôi.
Dừng lại! Tôi ra lệnh-Tất cả bỏ súng xuống! Ai còn tiến thêm bước nữa tôi bắn chết!
 Ðoàn người lập cập bỏ súng xuống giơ tay xin hàng. Lúc đó Kỳ vẫn lóng nga lóng ngóng đứng lẫn với đội hình của địch.Thế có chết hay không! Nếu tôi nổ súng chắc nó cũng tiêu đời còn gì.
 Tôi quát:
-Kỳ! Mang súng chạy lại đây nhanh lên!
Cầm khẩu AK trên tay tôi mới thật yên bụng, dồn toán người ấy tập trung vào một góc, tôi bảo Kỳ thu súng địch gom lại, tháo hết đạn và cho Kỳ chạy xuống tìm Thấu.
Một lúc sau Thấu lập cập chạy lên, mặt tái mét, hắn nhìn thấy toán người đã hiểu ra sự việc vội vàng quay đầu về báo cho tiểu đoàn bộ.
 Khoảng ba mươi phút sau Thấu đẫn một phái đoàn gồm ban tác chiến, ban chính trị và ban tham mưu lên làm việc. Sơ bộ ban đầu họ khai là đoàn cán bộ dân vận huyện 40 đi công tác qua. Con đường này là đường nối giữa huyện 40 với tỉnh uỷ tỉnh Kon-Tum, là đường của ta chứ không phải đường của địch. Dù sao cũng mời họ về tiểu đoàn để xác minh lại.
 Thấu là một chàng xấu trai lại háu gái- Thấy cô bé người thượng mũn mĩm ngồi cạnh chiếc gùi, Thấu bảo:
- Có hút thuốc không?
 Từ ngày bé hôm nay mới Thấu sởi lởi như vậy. Tưởng rằng cô ta chỉ vê một điếu nhỏ để hút là cùng. Ðàng này đồng bào lại bảo : Cho mình xin-Và thế là tiện tay túm luôn một nắm bỏ vào túi.Thấu tiếc đứt ruột, cho chết, đã keo kiệt lại còn sỹ!
Hôm sau chúng tôi lục tục xuống núi, kết thúc một tháng vận chuyển đảm bảo hậu cần cho chiến dịch . Chúng tôi được nghỉ vài ngày chuẩn bị súng đạn, quân tư trang và tắm giặt. Một tháng đi gùi hầu như chỉ tắm theo kiểu du kích, giao hàng xong quay ra bờ sông vừa lội, vừa giặt lại vừa tắm.Vắt khô quần áo, chùm lên đầu về đến nhà là gần khô. Cái lũ bẩn ở với nhau chẳng ai chê ai hôi cả.
Lệnh hành quân, đơn vị vượt sông đầu tiên vào lúc chạng vạng tối, chúng tôi cứ nhằm giữa hai chốt địch mà đi. Có điều rất lạ là khi chúng tôi ở bên này sông thì pháo địch bắn dữ dội vào phía bờ bên, khi sang đến nơi thì pháo chuyển làn sang hướng khác, để lại những vạt rừng cây cối bị phạt trơ ra và mùi khói pháo khét lẹt.
Ba ngày luồn rừng, hai căn cứ của địch đã ở phía sau, nghe đâu chỉ hai ngày nữa là đến Tân Cảnh. Các đơn vị tản theo đội hình, củng cố hầm hào chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu.
Không khí đại đội rất căng thẳng, một ngày không biết bao nhiêu lần hội ý. Ðoàn cán bộ tham mưu, tác chiến của trung đoàn và tiểu đoàn chuẩn bị đi khảo sát địa hình và nắm tình hình địch. Các đại đôi có đại đội trưởng và ba trung trưởng đi trước.Chúng tôi ở lại tiếp tục làm thao trường huấn luyện.
Sau một tuần nghiên cứu địa hình, tiểu đoàn đắp xa bàn cát, giao nhiệm vụ cho các mũi tiến công. Lúc đó tôi mới thấy nhiệm vụ đại đội mở cửa là vô cùng quan trọng. Không phá được hàng rào, không đánh chiếm được lô cốt đầu cầu để đơn vị bạn phát triển vào bên trong coi như là thất bại, là tổn thất rất lớn. Nhìn trên sơ đồ thấy địa hình bằng phẳng, lần đầu tiên đánh thành phố, đánh vào trận địa bố phòng kiên cố của địch chắc là ác liệt lắm.
Hàng ngày tiểu đoàn trưởng Bùi-Thanh-Hiêm người Thanh-Hoá xuống đại đội tôi theo dõi bộ đội tập trên thao trường. Ðó là một tiểu đoàn trưởng đầy nghị lực, quyết đoán và cũng rất nóng nảy. Anh đã từng chui vào hàng rào của địch, bò theo hướng tiền nhập của đại đội tôi, chỉ cho chúng tôi biết từng mô đất, từng bãi lầyvà khi bò lên mặt đường 18 nấp sau tà luy đường và leo lên hàng rào kẽm gai như thế nào. Nhìn trên xa bàn, nghe tiểu đoàn và đại đội chỉ dẫn tôi cũng mường tượng ra nhiệm vụ của mình. Một hôm anh Hiêm đang giảng trên xa bàn và hỏi tôi:
-Thế nào, đồng chí xạ thủ B40? Bắn mấy phát thì hạ gục lô cốt đầu cầu này?
 Tôi không đắn đo:
-Báo cáo thủ trưởng- Chỉ một phát thôi ạ!
-Ðược-Nhưng căn cứ vào đâu mà đồng chí khẳng định như vậy?
-Thưa thủ trưởng- Gần một năm vác B40 nếu tôi không bắn tin cái lô cốt to như thế kia thì tôi không phải là người lính của K8!
Khá lắm-Nhưng tôi nói trước:Vào trận nó không bình tĩnh như tập trên thao trường đâu, xung quanh pháo bắn, đạn nổ, phải biết vận dụng thực tế, lợi dụng địa hình để hạ gục mục tiêu và bảo vệ được mình, nhớ chưa!
Cho đến nay tôi vẫn nhớ câu nói đó.
Cuối tháng 3 năm 72 chúng tôi nhận lệnh vào phía trước, rừng ở đây toàn vầu và nứa, con đường thì lên dốc liên tục, đã có vết pháo bắn tới đây. Ðại đội ém quân ở một dông đồi nghe nói khi vượt sang bên kia là nhìn thấy quận lỵ Tân Cảnh đèn nê-ông sáng quắc.Thế là xắp xuống đồng bằng rồi, từ đây đánh tiếp thị xã Kon-Tum và chúng tôi vĩnh viễn chấm dứt cảnh ở rừng , ở núi.Tôi chỉ mong như vậy.
Ðã nghe tiếng đề-pa của khẩu pháo rất gần, có lúc nòng hướng về phía khác thấy tiếng nổ rất xa, vọng ình oàng vào núi. Có khi ba, bốn khẩu quay về phía chúng tôi nghe đạn bay vo vo như đàn ong trên đầu và nổ nối tiếp nhau thật đáng sợ.Có lẽ quân ta ba bên bốn bề đang tới gần, liệu có cánh nào bị lộ chưa? Máy bay quần đảo, rà sát các khu rừng quanh quận lỵ, tiếng trực thăng lạch phạch hướng thị trấn, có lẽ thằng địch đã thấy đấu hiệu không bình thường ở mặt trận này rồi.
Vừa đào xong hầm lại có lệnh quay ra.Thế có chết không, làm ăn kiểu này có mà nướng quân, có định đánh hay thôi không biết.Tôi đã muốn nổi cáu, tức nhất là cái kiểu quay vào quay ra như thế này, bom pháo nó tương phải thì chết cả lũ.
Ra đến vị trí cũ thì đóng quân, anh Hậu bảo: Các hướng khác còn vướng chưa vào kịp, để đảm bảo bí mật cánh bên này phải chờ vì đây là trận đánh lớn, hiệp đồng binh chủng.

Trận đánh đầu tiên

 Sáng ngày 06- 04-1972 chúng tôi lại quay vào vị trí trú quân hôm trước. Ngay tối hôm ấy mỗi tiểu đội chọn một chiến sỹ nhanh nhẹn, tháo vát đi nhận vị trí và đào hầm cho tiểu đội.Tôi được nằm trong số đi tiền trạm ấy.
Loanh quanh leo lên đỉnh dốc trời đã nhá nhem tối. Phía trước là một thung lũng rất rộng, gió thổi thốc lên, mát lạnh.Thị trấn Tân Cảnh khuất sau một dông đồi chỉ thấy ánh điện hắt lên sáng quắc. Con đường 14 lúc ẩn lúc hiện khi có một chiếc xe bật đèn chạy qua.
Chúng tôi bám theo nhau xuống dốc, sườn đồi thoai thoải có rất nhiều khe cạn. Cắt xuôi theo đường 14 ra phía thị trấn, qua hai con suối bờ rất dốc, chúng tôi dừng lại.
Người ta thì thào gọi nhau coi như gần địch lắm rồi, trinh sát tiểu đoàn dẫn các đơn vị vào vị trí của mình, tiểu đoàn bộ ở bờ suối bên này, chúng tôi ở phía bên kia suối.
Nhận vị trí đào hầm xong, anh Thụ (lúc đó đã là trung đội phó) phổ biến: -Mỗi người phải hoàn thiện hầm cho tiểu đội- Phải làm hầm kèo không được đào hầm khoét- Chú ý dùng cưa cắt gỗ, ngọn cây kéo ngay xuống đất không để địch phát hiện thấy có lá vàng, đảm bảo bí mật tuyệt đối!
Phía trên thấy có ai đó vội vã húc hầm, tôi san một vạt đất bằng phẳng rồi trải tấm tăng ra nằm. Có mấy quả pháo ro ro bay qua đầu rồi nổ phía sau dông đồi, pháo sáng thỉnh thoảng lại bắn lên hắt ánh sáng vàng ệch xuống khu rừng vắng lặng. Phía bên kia quận lỵ Ðăk Tô có chiếc C 130 thả đèn dù, phóng xuống mặt đất những chùm đạn 20 ly đỏ rực. Lâu lắm mới nằm tênh hênh trên mặt đất như thế này, kể ra gáo cũng thấy lành lạnh thật.
 Tôi đánh một giấc, tỉnh dậy khi tia nắng vàng phớt nhẹ trên ngọn cây, tìm xuống bếp anh nuôi lấy cơm và đóng nước Anh nuôi bảo: Chưa có đâu, cứ về đào hầm đi, khi nào chín cơm xẽ gọi!
 Tôi về mở xẻng húc hầm, trên miệng hầm tôi đào rộng khoảng 1m, dưới đáy khoét rộng dần ra cho đủ 4 người nằm. Một ngày thẳng dẳng mới xong phần đào đất. Ngày thứ hai lên rừng chọn cây đà và cưa kèo hầm,loanh quanh một mình vừa hạ cây vừa lấp, tối lúc nào không biết.Thôi dù gì cũng đã có hầm, đêm nay thao hồ cho chúng mày câu pháo.
Tôi yên trí phần việc của mình đã xong chỉ còn chờ quân ta đến là xuât kích, đêm nay chắc được một giấc ngủ ngon lành, không sợ bom pháo gì cả.
Khoảng ba giờ chiều hôm sau có một người đeo gùi tìm đến. Anh ta tự giới thiệu tên là Pồn người Nùng tỉnh Cao Bằng. Anh về làm trung đội trưởng của tôi từ khi chúng tôi vượt dốc sang bên này, trước kia ở đại đội vận tải của trung đoàn nay bổ sung về C6 .
Vừa ăn cơm chiều xong thì nhận lệnh xuất kích: Có một đại đội bảo an Nguỵ ngày mai xẽ hành quân chiếm lĩnh đỉnh đồi mà chúng tôi đang ở. Ðịch trên đỉnh, chúng tôi lại ở dưới chân đồi chắc xẽ lộ hết vị trí và hướng tiến quân của ta.Thế là ngay đêm đó đại đội có hơn mười người tức tốc lên chiếm cao điểm.
Trinh sát dẫn đường, chúng tôi xuyên rừng trong tầm pháo và ánh hoả mai. Lên cao nhìn rõ quận lỵ Ðăk-Tô với ánh đèn xanh biếc: Vài hôm nữa chúng tao xẽ ở trong ngôi nhà kia, bọn mày hãy đợi đấy!
Trên đỉnh đồi là một rừng cây thưa,� xen lẫn những bụi tế và bụi mua đã tàn lụi. Có rất nhiều hầm biệt kích đào từ bao giờ, chúng tôi chỉ việc sửa sang, nhặt mấy gốc cây khô lát lên trên và phủ đất rồi chia nhau gác
Sáng hôm sau trung đoàn cho biết địch đã chiếm dông đồi đối diện bên cạnh, từ đỉnh đồi của tôi qua một yên ngựa là đến, địch đã phát hiện chúng tôi và cụm lại phòng thủ. Tiểu đoàn lệnh cho C6 tổ chức bám địch. Anh Pồn lo lắm, một mình cắp súng tuần tra bên này lại sang bên kia chốt. Khoảng10 giờ anh ôm súng ngồi xuống cạnh hầm, tôi bảo:
-Ðã biết địch nó ở bên kia rồi, mình bám chặt lấy hầm, nó lên là ta đánh, anh cứ đi đi lại lại mãi, nguy hiểm lắm!
 Anh Pồn bảo:
-Ông cứ chú ý cảnh giới đi! Tôi lo hơn ông nhiều!
Khoảng hơn 10 giờ anh lại lúi húi cắp súng đi về phía yên ngựa, bỗng một loạt cực nhanh bắn đến, đạn nổ toác toác chiu chíu vào điểm chốt. Anh Pồn gặp địch rồi, chúng tôi nhảy xuống hầm sẵn sàng chiến đấu.
Nghe có tiếng người lao sao một chút rồi không gian vắng lặng, địch không bắn sang và chúng tôi cũng yên lặng chờ địch. Pháo vẫn câu qua đầu chúng tôi, nổ ình oàng xa lắm. Một tiếng rồi hai giờ trôi qua không thấy anh Pồn đâu cả, sốt hết cả ruột. Tôi bảo anh Thụ trung đội phó:
Có khi anh Pồn bị thương hoặc hy sinh rồi, anh cho người bám địch và tìm anh ấy đi!
Anh Thụ tổ chức cho: Thiện ( Gia Thanh - Phù Ninh - PT )-Tiến cáo (Không rõ quê)- (Sự mới vào theo đoàn Hoàng Liên Sơn năm 72) đi bám địch. Họ vừa đi chưa đầy trăm mét bỗng có tiếng mìn nổ, một loạt cực nhanh bắn sang. Không thấy AK bắn trả, một lúc sau thấy Thiện tay phải ôm lấy tay trái, cánh tay rũ xuống. Tiến cáo vai khoác súng, hai tay cầm hai khẩu AK chạy về, mặt tái mét :
-Thằng Sự chết rôi! Ðịch địch!
Toàn chốt căng ra, chưa bắn được thằng địch nào mà quân ta đã hy sinh mất hai người, bị thương một rồi. Nhìn lại chỉ còn tám tay súng. Tôi thấy Thụ lo lắm, anh cho người hộ tống Thiện về phía sau và báo tiểu đoàn xin quân tăng viện.
Khoảng 3 giờ chiều, tổ trinh sát của tiểu đoàn lên bám địch, một lúc sau họ quay lại bảo:
 - Liệt sỹ của các anh nằm cách đây 50 m, cho người lên lấy về đi!
 Tôi, Thụ và một người nữa chạy lên, Sự nằm thẳng mắt vẫn mở, chiếc bi đông nước để ngay trên ngực.Vết thương bị mìn dập nát hai bàn chân bung ra những đốt xương trắng nhởn. Không ai cấp cứu, không người băng bó và ga rô lại, uống nước vào lại càng nguy hiểm, máu chảy mạnh thêm.
Ðêm hôm ấy tiểu đoàn tăng cường thêm số đi trước của C5 và C7. Một khẩu cối 82 của C8, một tổ trinh sát lên đánh bật quân Bảo an xuống.
Xẩm tối-C7 đi đầu sau đó đến C5 và C8, Trinh sát đẫn đường. Ðại đội tôi là đơn vị mở của hướng K8 (Ðánh chiếm căn cứ 42 Tân Cảnh ) ở lại làm thê đội hai.
Ðoàn người dò dẫm dắt nhau sang dông đồi bên, vừa đi vừa chờ lệnh, nhưng do tối trời địch gài rất nhiều mìn định hướng nên không tiếp cận được. Quay về, mai đánh!
 Sáng hôm sau, đội hình vẫn như chiều hôm trước, chúng tôi theo trinh sát dẫn đường, hàng một tiếp cận trên dông yên ngựa. Cối 82 bắn lên cao điểm, C7 và C5 áp sát nổ súng, tiếng B40 ùng oàng, tiếng AK điểm nhịp. Ðịch điên cuồng phản kích bằng mìn và súng các loại, tiếng nổ loạn xạ, đan vào nhau. Cùng lúc ấy, pháo từ Tân-Cảnh Ðắk-Tô đồng loạt bắn lên điểm chốt mà tôi đang giữ, tiếng nổ chắc nịch găm mảnh phạt ngang những ngọn cây cổ thụ.Tôi vừa thò đầu lên cảnh giới vừa thụt đầu tránh pháo khi nghe có tiếng đạn rít trên đầu. Súng nổ một chập rồi im hẳn- Không biết đã dứt điểm chưa- Vừa nghĩ xong đã thấy quân ta lục tục cõng nhau chạy về, một số hy sinh và bị thương. Pháo địch bắn càng dữ dội, Thụ bo đầu rúc trong hầm tránh pháo Tôi cứ nghe tiếng cối xoè xoè, tiếng pháo vút tới lại thụt vào trong hầm, chơi trò ú tìm với địch. Bỗng thấy Xuất-Trung đội trưởng C5 còn quay lại nhặt một khẩu AK của liệt sỹ, chạy về qua hầm tôi khoảng10 m. Hai tay tay vừa đu người xuống cửa hầm thì một quả pháo bắn trúng ngọn cây trước mặt, toé lửa, tôi thụt nhanh xuống hầm, ngớt pháo thò đầu lên đã thấy người ta đang kéo Xuất lên mặt đất, một mảnh pháo phạt bay mảng đầu, máu chảy lênh láng từ trên nắp hầm xuống đọng thành vũng dưới nền hầm.
 Ðánh không dứt điểm vì địch rất đông và hoả lực chi viện quá mạnh. Pháo địch lại thi nhau bắn lên cao điểm- Chết người đấy, không phải trò đùa- Từ đó tôi dựa vào góc hầm, không dại gì mà chơi với pháo!
 Tối hôm ấy, C5 và C7 rút về vị trí tập kết,� C6 của tôi ở lại giữ chốt. Lại một đêm nữa đội pháo và thức trắng đây!
Sáng hôm sau, đại đội bảo an địch rút về Tân Cảnh, chập tối chúng tôi cũng được lệnh bỏ chốt, kéo nhau xuống chân đồi.
Về đến hầm, ăn cơm xong là lăn ra ngủ, không còn biết pháo, cối gì nữa. Sáng 14-4 tôi dậy muộn, dự định lấy cơm ăn xong lại ngủ cho thật đã, bù lại mấy ngày thức trắng trên chốt, sau đó xuống suối tắm giặt. Có tiếng chân người đi trên nắp hầm, tiếng trung đội phó Thụ:
- Hậu dậy chưa? Xuống bếp lấy cơm ăn xong còn xuất kích!
- Lại xuất kích hả anh? Thế mình không đi tìm anh Pồn à?
- Ði tìm anh Pồn đấy! Chờ trinh sát xuống rồi đi. Chỉ cần đem theo 2 quả B40 thôi!
Tôi linh tính thấy có cái gì đó rất khó giải thích, nửa muốn đi, nửa không.
Nhóm chúng tôi gồm: Thụ (nhóm trưởng)- Lành (Thái Bình)- Tôi xạ thủ B40 và (Tiến cáo. ăn cơm tại bếp anh nuôi, tôi nhỏ nhất nên phải đeo thêm 4 nắm cơm, ít ruốc thịt để ăn trưa.
Ngồi một lúc thì thấy Quỳnh trinh sát tiểu đoàn, quê (Phượng Vỹ- Cẩm Khê-Phú Thọ) cùng nhập ngũ một ngày với tôi đi tới- Quỳnh bảo:
 - Quân mình đi tìm liệt sỹ phải không? Ði thôi!
Chúng tôi theo Quỳnh cắt rừng lên chốt. Loanh quanh trong rừng một lúc thì đến đỉnh đồi.Tự nhiên Quỳnh lúng túng rẽ sang bên trái đi về phía sau chốt, Thụ bảo:
 -Sao lại đi ra hướng ấy! Rẽ phải ra chỗ đánh nhau hôm qua ấy chứ!
 Quỳnh cũng miễn cưỡng quay lại, tự nhiên tôi sởn gai ốc, trong đầu loé lên hai tiếng: Mìn, Mìn! Lúc đầu đi cách nhau mỗi người 4m, tôi chỉ nghĩ mìn là chôn dưới đất, dẵm lên xẽ nổ, tôi vội tiến nhanh bám gần sát Lành, vết chân của Lành đặt vào đâu thì tôi bước vào đó. Bỗng: Oàng một cái, khói bốc ngay chân Quỳnh, tôi thấy Quỳnh sững lại, quay mặt về phía sau và ngã vật xuống. Thụ ngã bật ngửa, máu từ trong đùi phun ra đỏ lòm. Hai tay ôm chặt hai đùi, Thụ kêu lên: Hậu ơi, tao gãy đùi rôi! Lành đi trước tôi cũng ngã dúi xuống, không kêu một tiếng. Cùng như một lúc, tôi thấy luồng điện giật bắn trong người, hai chân mất phản xạ, tê đi, đầu gối khụy xuống làm cho khẩu B40 cùng quả đạn lao cắm xuống đất: Tôi cũng gãy đùi rôi! Tiến đâu, lên băng cho các ông ấy đi!
Tôi thấy có một dòng máu phun ra, nóng hôi hổi, chết cha rồi, đứt động mạch, phen này thì nghẻo! Tôi tụt ngay quần ra cúi xuống, vết thương ở giữa đùi trước bên trái máu đã chảy thành dòng xuống quá đầu gối, đũng quần ướt sũng nhìn kỹ không phải là máu, hay là mình đái? Tôi thử nín lại, may quá, không phải đứt động mạch! Tôi cầm B40 chống lên đứng dậy, tập tễnh chạy về hầm.
Một mảnh ngập sâu giữa đùi trái, hai mảnh còn lại xuyên từ trước ra sau mặt trong của hai đùi máu ra đầm đìa, một mảnh trượt qua cổ chân rớm máu và một xuyên qua áo cạnh sườn phải. Mảnh đạn vào làm tê liệt thần kinh, van không đóng được, nước giải cứ thế tuôn ra ngoài. Tự băng bó xong, nửa người bên dưới đau ê ẩm, có tiếng bước chân chạy huỳnh huỵch phía trước, địch lên! Tôi dùng tay đẩy lưng dựa vào vách hầm đứng dậy. Thấy Tiến mặt méo xệch:
-Anh em chết hết cả rồi! Mày cố cảnh giới để tao về gọi người ta lên cứu!
Hai chân tôi đau điếng, dựa lưng vào vách hầm, tháo hai quả lựu đạn đặt trước mặt, chỉ có hai quả B40, địch mà lên thì đành liều chết với chúng nó vậy.
Tiến đi rồi, khu rừng càng vắng lặng, tôi nín thở cố lọc những âm thanh xào xạc để phát hiện tiếng chân địch mò lên. Anh nắng xiên xuống đỉnh đồi, lọt qua kẽ lá vẽ những hình loang lổ trên mặt đất. Không thấy ai kêu, họ nén đau để giữ bí mật hay chết tất cả rồi. Pháo địch hôm nay chuyển làn bắn sang hướng khác, có lẽ ở đấy đang đánh nhau, tiếng trực thăng và máy bay phản lực gầm rú phía bên kia Tân Cảnh.
Bị thương khoảng 10 giờ, lúc này tôi mới thấy đói. Sống hay mái cũng phải chén để lấy sức chiến đấu, tôi lấy nắm cơm của mình ra ăn. Càng ngày hai đùi càng tê dại, nếu ngồi xuống thì không thể đứng lên được, máu ra ướt hết vòng băng.
 Ba giờ chiều, có tiếng chân người phía sau, tôi ngoái lại- Tiến dẫn một đoàn nửa lạ, nửa quen nhớn nhác bò lên dốc. Tôi huýt sáo, họ ào lại phía tôi: Ðịch ở hướng nào? Gần đây không?Thương binh của ta đâu..
-Hậu hả, bị vào đâu? Có nặng lắm không? Ðưa tao cõng!
Khối cùng nhập ngũ với tôi-(Quê Sơn Dương-Lâm Thao-PT) thuộc đơn vị công binh đi trước đào hầm cho chỉ huy sở. Dìu tôi lên khỏi hầm, Khối túm luôn lấy chân tôi: Ây đau, không co được chân đâu, tao ôm cổ, để thẳng chân mới được!
Nhưng xuống dốc thì Khối đi trước tôi phía sau, chân chạm xuống đất đau nhói lên tận tim. Thôi! mày lấy dao găm phát thành đường để tao trườn xuống! Tôi lê đít vừa trượt, vừa lăn trên sườn dốc hàng trăm mét cho đến khi lọt xuống lòng khe.
Cõng thì chân vướng vào đá, đau điếng. Tôi bảo Khối chặt cho một chiếc gậy, trong người cảm thấy vẫn khoẻ mà chân thì bất lực, muốn bước đi mà không thể lê chân được.
Người ta cáng thương binh ngang qua tôi, Quỳnh và anh Thụ đã chết, Lành vẫn còn thở nghe đâu liệt cả chân và tay, cáng ra tận ngoài Bắc. (Không biết bây giờ như thế nào)
 Thấy tôi lê không được chân, Lưu-Văn-Tắc người tiểu đội trưởng khung huấn luyện chúng tôi ở Bắc Thái quay lại cõng tôi về đội phẫu. (Anh đã hy sinh ở mặt trận này)
 Tối hôm ấy, đơn vị vận tải vào cáng tôi quay ra. Pháo dịch bắn vo vo qua đầu rồi nổ phía con đường mà xắp đi qua. Nằm trên võng, nhìn xuống thị trấn Tân Cảnh sáng rực ánh đèn mà tôi thấy tiếc nuối, thế là hết, không được xuống đồng bằng rồi, liệu có còn dịp nào về thành phố không đây!
Chiều 15 tháng 4 năm 1972 tôi về đến ÐT- 3 (Ðiều trị 3). Ðội phẫu nằm trong một khu rừng già cách trận địa gần một ngày đường. Các lán trại nằm xung quanh sừơn dốc, hầm thùng, phên nứa đan làm xạp nằm, mái lợp sơ sài bằng cỏ tranh.
Có lẽ chúng tôi là lớp thương binh xông non trại, lác đác vài người bị thương trong các trận đánh vòng ngoài Tân Cảnh. Bác sỹ khám vết thương của tôi và hẹn mai xẽ mổ, hôm nay phải giải quyết mấy ca thương binh nặng hơn.
Sáng hôm sau một bác sỹ tìm đến hầm tôi, anh quê ở (Cẩm Khê - Phú Thọ) mới tốt nghiệp y khoa và bổ xung vào chiến trường Tây Nguyên. Thấy bệnh án thương binh quê Phú Thọ anh đến hỏi thăm. Tôi sốt ruột:- Em bao giờ thì được mổ? Anh cười: Bây giờ tớ xẽ mổ cho cậu, nghỉ một tý tớ cõng lên hầm phẫu!
 Hầm phẫu được đào sâu trong sườn núi, cửa hầm làm thoai thoải để cáng thương binh lên xuống. Trần hầm che tăng, xung quanh tường hầm vách đất chẳng có vải trắng quân y che chắn như tôi hằng tưởng. Bàn mổ khung bằng nứa, mặt bàn bằng thanh nứa đan nong mốt trải tấm vải nhựa lên trên, bốn cột bằng tre chôn chắc chắn xuống nền hầm.
Tôi nằm ngửa tênh hênh giữa bàn, hai y sỹ cũ của ÐT từng mổ rất nhiều chỉ đạo kỹ thuật, một y tá vô trùng phục vụ và người cầm dao là anh bác sỹ mới ra trường. Thấy họ bảo nhau gây tê, sâu tý nữa, khoét bên nọ, thông bên kia, máu chảy ra khỏi vùng gây tê tôi lại thấy nó nóng hôi hổi. Kéo cắt thịt cứ sần sật, nghe rõ mồn một, thỉnh thoảng lại nhói lên. Họ bảo nhau lấy cây thăm xoáy sâu vào trong đùi tìm mảnh đạn. Tôi thấy giật thót, tê dại trong đùi và kêu to. Anh bác sỹ bảo: Không thấy mảnh đâu, thôi kệ nó sau này mỡ nó xẽ bao lại, ra bắc mổ sau!
 Tôi được cáng về hầm, suốt đêm hai đùi đau ê ẩm không sao ngủ được. Sáng hôm sau tôi được đoàn vận tải của dân gùi gạo cho bộ đội và cáng ra ngoài. Anh bác sỹ cùng quê bảo: Ðợt thương binh này phải chuyển ngay về viện B 80 tỉnh đội Kon Tum điều trị. ở đây vài hôm nữa là ùn tắc thương binh, không có chỗ nằm đâu!
Tốp cáng tôi có bốn người, hai đàn ông trung niên và hai cô gái dân tộc Thượng, thôi thì mặc kệ họ, muốn đưa đi đâu thì đi. Tôi cứ nhắm mắt chùm chăn kín mặt ngủ khật khưỡng trên võng. Lên dốc rồi xuống dốc, sang đông rồi về tây, cứ hai người đàn ông cáng thì tiếng chân chắc nịch, đi rất đều và nhanh hơn hẳn. Ðổi cho hai cô gái cáng thì võng lắc bên này, đu sang bên kia, nhún nha nhún nhẩy. Có khi đang lên dốc, họ trêu nhau hoặc tán cái gì đó bằng tiếng dân tộc thế là cười như nắc nẻ, may mà hai người đàn ông chạy lại đỡ kịp nếu không thì họ đã quăng tôi xuống suối.
 Con đường xe ngựa như dài mãi ra, chưa thấy có dấu hiệu gì là đến viện cả. Quá trưa, cái nắng đầu mùa nung xuống mặt đường, chăn và võng nóng rát. Các vết thương tấy mủ thối khẳn, thịt của mình mà không tài nào thở được, tôi kéo chăn xuống cổ và lấy áo che lên mặt cho đỡ nắng và thối. Ðoàn người có lẽ thấm mệt, không thấy ai nói gì cả chỉ thấy những bước chân nén xuống mặt đường.
�� Một đoàn cán bộ đi công tác ngang qua, thấy đoàn thương binh chủ lực. Họ mời vào ven đường, một chị có gương mặt phúc hậu nắm lấy võng của tôi:
� - Em bị thương vào đâu?Ta đánh đến Tân Cảnh chưa mà bị thương nhiều thế hả em! Qua chị tôi mới biết đây là đoàn cán bộ hội phụ nữ tỉnh Kon Tum đi công tác, chị lấy trong gùi ra một túi bánh Dầy và phát cho mỗi người thương binh hai chiếc. Tôi cầm một, chiếc còn lại đưa cho hai cô gái. Họ nhìn tôi cười và chia nhau ăn ngon lành.
� Càng đi sâu vào hậu cứ, núi cứ cao hơn và rừng càng ngút ngàn, tiếng máy bay ầm ì có vẻ chiến tranh ở xa lắm. Xẩm tối, tôi thấy họ rẽ ầm ầm vào khu rừng bên cạnh.
- Cái bệnh viện của tỉnh còn xa lắm mà! Mình phải chốt lại ở đây thôi!
� Mặc cho chiến sỹ quân y đi hộ tống thương binh nói những gì, họ cứ kẻ lấy nước, người chùi gô dúm củi vào và đốt lửa. Bí quá anh ta nói: Nếu đồng bào không đi nữa thì thương binh của đội nào đội ấy cho ăn, chương trình hôm nay phải đến bệnh viện nên không đem theo gạo. Ðang ngồi vắt vẻo trên võng chờ cơm bỗnh huỵch một cái, tôi ngã lăn xuống đất, lộn hai vòng và nằm ngửa dưới tà luy đường, đau điếng. Hai người đàn ông chạy lại đỡ tôi dậy, hai cô gái đang chụm lửa nấu cơm đứng ngây ra. Dây võng tự nhiên tuột khỏi cáng, may mà ở ven rừng chứ đang khiêng nhau trên suối thì
 Khoảng 9 giờ sáng hôm sau chúng tôi đến bệnh viện
----------------------------
Ngày 12 tháng 07 năm 2007
Hoàng Kim Hậu
ÐT: 0210.3785.060
DD: 0934.441.239
----------------------------