Thứ Tư, 20 tháng 7, 2011

NGỌN CỜ VÔ DANH


Hồi ký:  NGỌN CỜ VÔ DANH
(Thân tặng các chiến sỹ Ðại đội 2 - Tiểu đoàn 4
Trung đoàn 24 anh hùng)

 Ðêm ngày 17/12/1954 tôi cất tiếng khóc chào đời. Bà nội tôi mừng quá vội đặt cho cái tên - Thanh - Tân Khải Thanh, khai sinh tại nhà hộ sinh: Trương Thị Thược phố Bà Triệu - quận Hai Bà Trưng - Hà Nội. Ðặt tên là Thanh, bà tôi ước mơ cháu mình sẽ có một cuộc đời hạnh phúc sống trong cảnh hoà bình. Thật đúng vậy - Tổ quốc vừa hoà bình.
Tôi được cha mẹ nuôi dưỡng học hành, rồi lớn lên tại một gia đình nhà văn nghèo cho đến cái ngày 29/4/1974 tôi nhận quyết định nhập ngũ. Tháng 11/1974 tôi được bổ sung vào đơn vị: C2.D4.E24.F10 Tây Nguyên. Tôi thích quá suốt ngày nghĩ ra các trận đánh: Bom, đạn, vèo, vèo ùng oàng các kiểu...
Thế rối cái gì đến nó sẽ đến. Qua suốt mấy tháng hành quân khẩn tốc, đơn vị tôi nhận lệnh tấn công vào thành phố.
Ðêm ngày mùng 9 rạng mùng 10 tháng 3 năm 1975 tôi cùng đơn vị vào chiếm lĩnh trận địa. Ðại đội tôi được giao là đơn vị mở cửa. Lúc bấy giờ tôi là lính của tiểu đội 5 Trung đội 2 - Ðại đội 2. Anh Vân và anh Thi làm B trưởng và phó. Anh Thi hay đi với tiểu đội của tôi. Dẫn bọn tôi vào đào hầm là anh Bùi Văn Bịn tiểu đoàn phó, tổ trưởng tổ tôi là anh Ðộng. Ngoài ra chúng tôi còn được tăng cường thêm Việt. Tất cả gồm có: Ðộng - Thanh - Chón - Hướng - Việt - anh Bịn - anh Thi. Anh Bịn và anh Thi chạy đi chạy lại...
Anh Bịn chỉ cho tôi chỗ đào hầm và dặn “ Ðào đúng chỗ ấy, nếu sai phải mìn ”. Tôi cắm nhát xẻng đầu tiên, cả 5 thằng chúng tôi lặng lẽ đào bới thật không may tí nào bọn tôi đào được khoảng 70cm thì bị đá xanh, đá làn không tài nào đào được nữa. Tôi đành ngửa mặt lên trời phó mặc cho số phận, cả năm thằng ngồi im lặng, chán nản. Tôi bổng nảy ra ý định, vì thấy cạnh ngay chỗ tôi có khóm chuối tây to tướng tôi bèn chặt lá, tiễn gốc, bê về xếp lên cao, rồi xúc đất lấp lại, cả tổ cùng làm, chỉ một lúc căn hầm đã xong. Tôi mừng quá lấy nước ra uống, mắt quan sát xung quanh, dưới ánh điện sáng lờ mờ... bỗng địch nổ súng loạn xạ, tôi chột dạ thấy vậy anh Bịn ngồi cạnh tôi động viên: nó bắn vu vơ đấy kệ nó. Tôi - anh lính mới tò te lần đầu tiên trong đời nhìn thấy nhiều đạn, các loại bay vèo vèo, chíu chíu, ùng ục... tâm trạng vừa thích, vừa lo.
Bỗng tôi thấy một ngọn lửa vừa đỏ vừa xanh bùng sáng kèm theo là tiếng nổ long chuyển đất. Tôi còn ngơ ngác chưa hiểu là gì?
Anh Bịn ở cạnh nói ngay: “Pháo lệnh của ta bắn đấy, đến giờ nổ súng rồi”. Tôi nhìn vào đồng hồ đeo tay của anh Bịn, đúng 2 giờ, ngẩng đầu lên thì thấy trời sáng rực, lửa tứ phương, đạn bay đỏ trời, thi nhau rơi vào nhiều chỗ. Anh Bịn giải thích “Ta bắn vào sân bay Hoà Bình, trận địa pháo, khu thiết giáp, Sở chỉ huy, kho xăng của địch đấy ...”.
Tôi sướng quá cười rung hết cả người, mà không dám reo to. Thị xã Buôn Mê Thuột vừa lúc nãy điện còn chói loà cả mắt, giờ tắt ngấm, chỉ có đạn và lửa. Ðạn ngoài bay vào, đạn trong bay ra, lửa cháy đỏ đất, đỏ trời... Máy bay lên thẳng của địch bay phèng phèng ngay trên đầu bọn tôi, chúng tôi bắt đầu cảnh giác, tất cả chui vào hầm, chỉ còn tôi và anh Bịn ngồi quan sát, mấy lần địch bắn ra sát sạt chỗ tôi ngồi, anh Bịn ấn cổ tôi xuống, xong tôi lại ngó lên, cái máu thích mạo hiểm nổi dậy tôi vơ vội khẩu AK giơ lên trời định nã 1 băng vào thẳng cái trực thăng, nó bay chỉ cách đầu tôi vài chục mét. Anh bịn vội ấn nòng súng của tôi xuống mồm quát “Ngồi im - nó trinh sát đấy!”. Tôi đành ngồi im, ngón tay vẫn không rời cò súng.
Khoảng 6h kém gì đấy, anh Bùi Văn Bịn gọi tôi và Hoàng Quốc Việt ra bảo “Hai đồng chí là chiến sĩ cắm cờ chuẩn, Việt số 1, Thanh số 2. Có lệnh tôi, Việt chạy lên cắm trước cách chỗ này chừng 30m, chỗ đống mối kia, thẳng tay tôi chỉ. Việt không cắm được thì Thanh lên thay, tất cả hoả lực của ta sẽ bắn chi viện cho hai đồng chí. Cửa mở đúng hướng, thành công là do người cắm cờ chuẩn. Hai đồng chí nghe rõ chưa?”. Cả hai chúng tôi đồng thanh đáp “Rõ”. Tôi cầm 1 cờ, Việt cầm 1 cờ, chiếc cờ rộng khoảng hơn 2m vuông gì đấy, cột làm bằng cây le cao khoảng 1,6m. Tôi và Việt dựng cờ cạnh hầm và chờ lệnh. Tôi ngó lại phía sau quan sát thấy pháo phòng không, xe tăng, xe thiết giáp, súng cối to, nhỏ, ÐK, dài ngắn các loại dàn hàng ngang đợi lệnh. Ðúng 6h anh Bịn hô: “Việt cắm cờ...” đồng loạt súng nổ, trong ngoài đỏ lửa. Bọn tôi ở gần nhất cũng thi nhanh nã đạn chi viện cho Việt. Việt xông lên ôm cờ chạy về phía trước, thấy Việt cầm cờ xông lên, địch thi nhau bắn vào Việt, thẳng hướng đạn bay vào hầm tôi như mưa, đỏ lửa đường Việt chạy. Ta bắn không tiếc đạn chi viện cho Việt đắc lực “Thật oai hùng”. Hoàng Quốc Việt người Tam Nông - Phú Thọ - anh lính mới 74 đã cắm cờ chuẩn thành công. Anh chạy về lao vào lòng tôi, tôi vội sờ người Việt may thay máu không đổ. Việt ngồi đây lành lặn thở hổn hển. Lệnh mở cửa bắt đầu. Anh Bịn rời chỗ tôi, sang chỉ huy đại đội tôi mở cửa. Tôi nhanh chóng tước sợi dây chuối quấn cờ chặt lại buộc cho nó cái quai đeo ra sau lưng cùng súng đạn, gùi, tất cả nằm trên lưng tôi chặt chẽ. “Tôi có ngọn cờ từ đấy”. Tôi nhanh chóng ôm quả bộc phá ống dài 1,2m lao lên khỏi hầm cách vài mét, nằm đợi đến lượt mình. Tôi ngước nhìn phía trước, phía sau, trái, bồn bề lửa khói, súng nổ, đạn nổ, mìn nổ, bộc phá nổ, khói lửa mịt mù. Ngọn cờ chuẩn vẫn bay phấp phới ở đó cửa mở sắp thông.
Rồi đến lượt tôi, tôi lao đi ôm theo quả bộc phá 1,2m đút vào hàng rào rồi điểm hoả, quay đầu chạy lùi về phía sau khoảng 10m rồi nằm xuống ngước mắt lên nhìn, tôi thấy bùng lửa, bộc phá nổ, tôi rút súng ra bắn chi viện cho người sau đánh tiếp, khoảng một lúc cửa mở thông.
- “Lệnh xung phong”.
- Xe tăng, xe bọc thép, bộ binh lần lượt tiến vào cửa mở, súng nổ càng dữ dội hơn. Anh Thi dẫn tiểu đội tôi tiến vào khu gia binh rồi đánh tạt xuống kho Mai Hắc Ðế, chúng tôi vượt qua con đường nhựa lao xuống, đến đây mũi tấn công của chúng tôi bị khẩu cối 61 của địch đặt trên tháp nước, ở giữa kho Mai Hắc Ðế bắn trả quyết liệt, chúng bắn giỏi không trượt viên nào, loạt đầu chúng đã hạ tất khẩu đội cối của đại đội tôi. Anh Bịn, D phó, anh Thiện, C phó đều bị thương tất. Cả gần 10 người, cả tổ trưởng Ðộng của tôi cũng hy sinh tại đây, chỗ này chỉ cách cột cờ kho Mai Hắc Ðế khoảng 150cm về phía Tây Bắc. Còn anh Thi cùng một số anh em đánh lạc xuống B3, nhìn lại chỉ còn 4 người, tôi và Chón + Mùi và Dầm. Tôi vừa đếm xong lại thấy Dầm ngã xuống. Vậy chỉ còn 3.

Tôi cúi xuống băng vết thương cho Dầm, băng xong Mùi hỏi tôi “Còn 3 thằng cũng đánh”. Mùi hỏi “Ai chỉ huy?”. Tôi bảo “Tao chỉ huy”. Mùi giữ B41. Chón giữ B40, tôi súng AK. Lúc này súng nổ dữ dội, tôi thấy Dầm nhăn nhó, thương bạn tôi cõng Dầm ra phía sau, chạy được khoảng 10m địch bắn theo như vãi đạn, tôi bỏ Dầm xuống mồm hô “Chạy”, Dầm chạy loạng choạng ra phía sau. Vừa ngẩng đầu lên đột nhiên tôi nhìn thấy cái xe tăng T54 của ta lừ lừ đi một mình, đang tiến lại gần tôi, tôi mừng quá chạy lại vẫy vẫy dẫn chiếc xe tăng theo mình, chiếc xe tăng ngoan ngoãn theo tôi luôn. Thấy vậy Mùi và Chón cũng chạy lại, thế là 3 thằng chúng tôi cùng cái xe tăng dàn hàng ngang đánh xuống kho Mai Hắc Ðế. Lính xe tăng quát không nghe thấy tiếng. Tôi bèn rút cờ ra chỉ huy, tôi cầm cờ chỉ vào cái tháp nước, rồi phất cờ xuống mồm hô “Bắn” tôi thấy cái xe tăng lùi lại một tí, nòng pháo loé lửa chiếc tháp nước nổ tung, khói phủ mù mịt. Tôi hét lên “Giỏi lắm! hoan hô lính tăng” cả 3 thằng bọn tôi cùng cười.
Chúng tôi vừa đi vừa bắn tiến đến gần chỗ cột cờ kho Mai Hắc Ðế, tôi thấy địch bỏ chạy hết. Tôi bèn ra lệnh rúi lui, tôi dẫn xe tăng quay lại cửa mở, để chốt giữ cửa mở và làm công tác tử sĩ. Lúc này khoảng 11 giờ trưa, súng cũng bớt nổ chỉ còn máy bay và pháo phòng không đấu nhau là chính. Tôi tìm chỗ cho chiếc xe tăng nấp vào giao cho nó cảnh giới còn tôi và Mùi, Chón thu gom thương binh, có anh Bùi Văn Bịn D phó và anh Thiện C phó bị thương cùng với gần 10 đồng chí nữa. (Anh Ðộng tổ trưởng của tôi hy sinh tại đây). Chúng tôi nhanh chóng giao hết cho cánh lính vận tải ở sau. Rồi thu gom súng hoả lực lại tiếp tục chiến đấu, tôi bảo tranh thủ ăn lương khô đi, tôi bóc phong lương khô của mình ra, đang ăn chưa nổi một phong, bỗng thấy đạn cày vào miệng hềm chiu chíu... Tôi vội vứt phong lương khô xuống vớ lấy súng, cả Mùi và Chón cũng vậy. Ba thằng ngóc đầu lên quan sát. Tôi thấy 2 xe tăng, 2 bọc thép, đúng xe T54 và K63 của ta, sao nó không có cờ xanh đỏ ở ăng ten? Mà lại cứ nhằm vào bọn tôi mà bắn mà nhả đạn thí mạng, tôi vứt khẩu AK �xuống vơ khẩu B41, Mùi B41, Chón B40 cả ba dương búa đập súng chờ đợi. tôi ra lệnh khi nào tôi bắn thì mới được nổ, tôi phân công “Mùi bắn cái cuối cùng” (xe K63). Tôi bắn cái xe tăng đầu tiên, Chón diệt cái ở giữa. Còn lại nạp đạn bắn nốt không cho nó thoát, nhưng rất khoát phải đợi lệnh. Tôi do dự vì đoán là xe của ta đánh nhầm, cả 4 chiếc xe cứ lừ lừ tiến thẳng vào chỗ chúng tôi, đi đến đâu chúng thi nhau nhả đạn tới đó. Tôi ước lược cự ly 200m - 150m - 100m -70m, Mùi xin “Bắn nhé”. Tôi im lặng, thú thật lúc ấy tôi hoang mang do dự càng gần càng rõ đúng là xe của ta sao nó cứ bắn mình !!!.
Mỗi lúc một gần. Tôi bỗng nghĩ đến ngọn cờ, tôi vội giơ lên vẫy vẫy. Súng im bặt cánh lính ngồi trên xe tăng giơ vẫy vẫy - thật hú vía, suýt nữa quân ta đánh thắng quân mình, cánh lính trên xe tăng nhảy xuống ôm bọn tôi xin lỗi. Họ bảo vì lá cờ ba sọc vẫn trên cột cờ kho Mai Hắc Ðế nên đã nhầm tưởng là sở chỉ huy của địch do vậy cứ nhằm nó mà tấn công. Không ngờ bọn tôi lại đánh chiếm rồi.
Tôi hối tiếc vì sáng tôi không hạ cái cột cờ ấy xuống, cho nên mới xảy ra cơ sự vậy. Nhưng vẫn còn may, tất cả nhờ cái cờ chuẩn số 2 của tôi cứu sống.
Anh chỉ huy đoàn xe tăng của bạn xin ở lại cùng bọn tôi vì họ mất liên lạc và cũng sắp tối rồi. Bọn tôi đồng ý ngay. Thế là tụi tôi có 3 xe tăng, 2 bọc thép, tối nay giữ cửa mở vững mạnh vô cùng, tôi yên tâm hơn.
Lúc này khoảng 6h chiều, súng vẫn nổ, máy bay của địch bay trên đầu kêu gọi việt cộng đầu hàng. Mặc nó, việc ai người đó làm, gần tối bọn tôi bắt được một tù binh nữa ở ngay gần cửa mở, bọn tôi trói lại và cho ngồi dưới hầm ví tối rồi, không giao được cho phía sau nữa. Tôi nhường lương khô của mình cho anh ta chén, thật đáng tội tôi định thả ra, nhưng lại sợ anh ta quay lại giết tất tụi tôi, hoặc là đêm tối thế này anh ta ra lại ăn đạn chết oan, nghĩ vậy tôi đành im lặng thở dài...
Ðến gần tối: Anh Nguyễn Ðình Thi lính 68, B phó tìm thấy chúng tôi, anh thu gom chúng tôi lại và chỉ định tôi là A trưởng - A5. Anh Thi ở cùng hầm với bọn tôi và trực tiếp chỉ huy, anh thông báo Sáng anh Oánh - Tiểu đoàn trưởng hy sinh, ta làm chủ vòng ngoài, địch sắp thua rồi; Ðêm nay ta củng cố lại lực lượng mai tiếp tục tấn công.
Trời tối hẳn, tôi thấy đói, khát, mệt mỏi giã rời chân tay, tôi ngồi nghỉ dưới hầm, lắng tai nghe, im lặng... như không có gì xảy ra, hình như hai bên cũng ngấm đòn thì phải, tôi lẩm bẩm “Chiến tranh mà”. Ngồi một lúc, tôi bảo Mùi và Chón cảnh giới tôi đi tìm cái ăn nước uống cho cả tiểu đội. Nói rồi tôi nhảy ra khỏi hầm đi tìm, một lúc tôi mang về một can nước đầy, vài cái bắp cải, mấy củ su hào, vào hộp thịt chiến lợi phẩm, về đến nơi tôi bảo Mùi luộc rau lên để ăn, nói xong tôi đi kiểm tra các chỗ gác, nhất là chỗ xe tăng. Tôi mò đến cái xe tăng lúc sáng đã cứu bọn tôi. Anh A trưởng nói bọn này bị sa lầy do vậy lên sau, cánh các ông gặp may đấy. Nói xong cả hai cùng cười. Kiểm tra xong tôi về hầm của mình tranh thủ ngủ... Tôi đứng tựa lưng vào hầm ngủ say như chết. Bỗng anh Thi đập vào vai tôi gọi “Dậy!”. Tôi bật dậy như lò xo, tay vơ vội khẩu súng, anh Thị vội dí mũi xúng của tôi xuống “Sáng rồi”. Tôi mở mắt nhẩm “ Một ngày mới đây”.
Cánh lính tăng đến chào bọn tôi, họ về đơn vị cũ nhận lệnh mới. Mùi bê ra một mâm rau luộc đầy ú ụ. Tôi sáng mắt lên, cả tiểu đội cùng cười chuẩn bị chén (chả là vì gần 1 năm bộn tôi không được ăn rau mà).
- Thú thật tôi chỉ còn 1 bước nữa là bốc được rau ăn, bỗng anh Thi ra lệnh “Tấn công”. Tôi bảo “ăn đã”, anh Thi quát “Không ăn! đi ngay”. Tôi cầm súng khoát gùi, đeo cờ lên sau lưng, dẫn tiểu độ cùng chạy, bỏ lại mâm rau luộc đầy ắp và người tù binh xấu số ở phía sau...
Anh Thi chạy cùng tiểu đội tôi, vừa chạy anh vừa an ủi “Ðánh xong,ta quay lại ăn chưa muộn... Lúc nào tôi ra lệnh thì đồng chí cắm cờ ...” tôi hô “Rõ”.
Lúc này súng nổ càng dữ dội hơn, bọn tôi cùng xe tăng đánh vào khu chỉ huy Liên đoàn biệt động 350 của địch, đến đây anh Vân B trưởng bị thương, anh Thi toàn quyền chỉ huy trung đội tôi tấn công. Tôi nhảy vọt vào nhà chỉ huy của địch chẳng thấy tên nào, bèn vòng ra phía sau, tôi và Chón nhìn thấy một hầm ngầm, gọi hàng 3 lần chẳng tên nào ra. Tôi điên tiết túm 2 quả thủ pháo chập vào 1 điểm hoả, cùng một phát thủ pháo nổ miệng hầm sập thế là xong hầm chỉ huy của địch. Tôi bỏ chạy ra chỗ anh Thi, vừa đến gần chỗ anh đứng bỗng nghe thấy tiếng trẻ con khóc, nhìn sang phía bên kia đường thấy 2 cháu bé chừng 4, 6 tuổi chạy ngã díu dịu, vừa khóc, vừa gọi mẹ trong lúc lửa đạn hai bên chùm cả mặt đường, quá nguy hiểm phải cứu các cháu, anh Thi lệnh “Thanh chạy sang đường đưa hai đứa bé lại đây!”. Tôi đeo súng ra sau lưng cúi người xuống băng qua con đường nhựa, giữa hai làn đạn địch và ta, cả trung đội nổ súng yểm trợ cho tôi, đến nơi tôi cắp hai đứa trẻ vào nách chạy vụt trở lại, nhảy tọt vào lô cốt gần đấy... thế là xong. Tôi nhìn hay đứa bé gái, một chừng lên 4, một chừng lên 6, một đứa bị một viên đạn R15 xiên qua giữa lòng bàn tay, một đứa bị viên khác xiên qua bắp thịt cánh tay. Tôi băng lại cho chúng, rồi anh Thi vào nhìn chúng với vẻ đau xót. Tôi hỏi “Mẹ chúng đâu?”, Chúng mếu máo. Tôi chắc là mẹ chúng lạc chúng trong lúc bom đạn, hoặc mẹ chúng đã bị trúng đạn! chiến tranh mà. Tôi bèn chạy đi tìm được gói kẹo cao su đưa cho chúng ăn, con chị khôn hơn ăn nhả bã, còn con em thì nuốt tất, tôi bảo nó nhè ra, nó làm theo và không chảy nước mắt nữa.
Anh Thi giao 2 đứa trẻ cùng một tù binh bị thương cho bộ phận quân y. Bọn tôi lại nổ súng tiếp tục đánh. Súng nổ càng dữ dội hơn, các đại đội trong Tiểu đoàn tiếp tục tiến về Sở chỉ huy Sư đoàn 23 Nguỵ. Trong khói bom đạn tôi đã nhìn thấy phía xa bên tay trái dòng chữ “Bộ tư lệnh Sư đoàn 23”. Ðây rồi, mục tiêu mà bọn tôi từng được phổ biến đã hiện lên ở phía trước. Tôi sung sướng quá muốn hét lên thật to. Bỗng anh Thi ra lệnh “Thanh cắm cờ lên cổng kia!”. Tôi rút cờ ra lôi theo Hà Thanh Hướng, đến nơi tôi khoác súng ra sau lưng, chèo lên vai Hướng, Hướng kông kênh tôi lên, tôi bám vào thành cổng chèo tót lên cắm ngay ngọn cờ vào giữa cái cổng to đồ sộ, cắm xong tôi vừa tụt vừa nhảy ào xuống đất. Hướng và tôi mỗi thằng đứng canh một bên cổng bắn yểm trợ cho cả đại đội xung phong. Lúc ấy khoảng 11h trưa ngày 11/3/1975 khoảng 30 phút sau anh Thi ra thông báo “Ta làm chủ hoàn toàn trận địa, sư bộ 23 của địch bị tiêu diệt” . Tôi chỉ mỉm cười, lôi nước ra uống, mắt quan sát xung quanh.
Ngày hôm sau chúng tôi được lệnh tiếp tục đánh phát triển theo đường 21, anh Thi bảo tôi “Rút cờ xuống”, tôi trèo lên thu cờ rồi nhảy ào xuống đất. Xuống rồi tôi còn kịp đọc “Sư bộ 23”, tôi tháo cán ra vứt đi gấp cờ lại đút vào gùi cvủa mình, rồi cùng đơn vị rút ra rừng cao su nhận nhiệm vụ mới.
Tôi vẫn giữ lá cờ ấy cho đến tận 1977, một lần về đón quân ở Hà Nam Ninh, tôi tạt vào thăm cô ruột mình ở Nam Ðịnh, chẳng có gì làm quà tôi bèn lấy lá cờ ấy ra, tặng cho cô ruột mình. Còn ngọn cờ chuẩn số một cắm ở cửa mở tôi không rõ ai giữ nữa...
Cho đến hôm nay 35 năm trôi qua chẳng có ai hỏi đến hai lá cờ ấy nữa và hai cháu bé được tôi cứu sống chẳng biết hiện nay ở đâu? Sống thế nào? Còn tôi vẫn sống cùng với đứâ con gái khuyết tật. Cháu đã học xong lớp thông tin thư viện tại trường Ðại học Hùng Vương, nơi quê cha đất tổ Vua Hùng. Cái nơi bố nó ra đi đánh giặc. Cháu bị gù lưng do ảnh hưởng chất độc da cam, đến giờ vẫn chưa xin được việc làm, đi xin nhiều nơi nhưng chưa có nơi nào nhận, cả đời nó chỉ ước mơ có việc làm ổn định để tự nuôi sống mình, còn tôi cả đời ngay thẳng cũng chẳng giúp gì được cho con. Do vậy, hai cha con tôi sống nhờ đồng tiền trợ cấp của Nhà nước (Thương binh và chất độc da cam).
Tài sản của cha con tôi không có gì để thế chấp, nhưng tôi vẫn tự hào, sống đàng hoàng ngẩng cao đầu, bất khuất.
Thôi nhé, năm mới sắp đến rồi. Chúc các bạn hạnh phúc.


Văn Luông, ngày thành lập Quân đội 22/12/2009
Người viết
Tân Khải Thanh
Xóm Bến Gạo - Xã Văn Luông - Tân Sơn - Phú thọ
ÐT: 0166.8784.303